TG: GS. Đinh Văn Đức Trường ĐHKHXH&NV - NGUỒN: Trang Tin tức Sự kiện |
Báo cáo này của chúng tôi sẽ tập trung nhận xét các điểm sau đây: |
1. Địa - ngôn ngữ học (Geolinguistics) vốn có nguồn gốc châu Âu đã góp phần minh định bản đồ phương ngữ của nước Đức hồi thế kỷ 19, rồi nó được khoa ngữ học hiện đại tiếp thụ, nhất là về phương pháp, giúp ta nhìn nhận sự tập hợp và phân bố ngôn ngữ khu vực từ cái nhìn của địa lý học. Mà địa lý thì bao giờ cũng gắn với kinh tế, dân cư và xã hội. Bởi vậy, với cái nhìn Địa ngôn ngữ học ta sẽ nhìn rõ hơn các đặc thù của một không gian chính trị - xã hội nào đó đang hiện hữu và phát triển. ASEAN là một trường hợp như vậy.
2. Người Trung Hoa có câu: :” Thế lớn trong thiên hạ bao giờ cũng vậy: Cứ lâu lâu, tan rồi lai hợp, hợp rồi lại tan” ( La Quán Trung, câu mở đầu “Tam quốc Diễn nghĩa). ASEAN vào tuổi bốn mươi đang vào lúc hợp và tiếp tục tăng cường mở rộng các hoạt động hợp tác và hội nhập. Một cái nhìn hồi quan cho ta thấy thoạt kỳ thuỷ đây là một liên minh chính trị mang màu sắc quân sự thể hiện caí không khí đối đầu của thời chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh ở Việt nam. Cái tên “ Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á” (ASEAN, 1967) đã cho thấy mối quan hệ liên minh không có nhiều tiêu chí về địa lý, kinh tế và văn hoá. Thế mà nay chính nó đang hướng tới cái đó và muốn tiến lên bằng cái đó.
3. ASEAN, xét về địa lý là một nhóm nước gồm có đất liền, bán đảo và đa đảo, lập thành một cái lòng chảo giữa Ân Độ và Trung Hoa, lại nằm chính giữa con đường hàng hải Tây-Đông, nối Ấn Độ Dương và Thái Bình dương. Rõ ràng rất thuận tiện cho việc giao thương và có ý nghĩa quan trọng về Địa kinh tế và Địa chính trị. Tuy nhiên về cư dân và văn hoá thì khu vực này lại không phải là một hợp thể. Tính đa dạng, nhiều chiều, thậm chí khu biệt về văn hoá giữa các quốc gia có làm phân tán khả nănghướng tới một nhất thể kiểu châu Âu, Tây Á, Caribê hay Nam Mỹ.
4. Có ba vấn đề lớn liên quan đến Địa ngôn ngữ học tại khu vực này . Thứ nhất là bản đồ ngôn ngữ khu vực phân bố khá đa dạng, khu biệt và phi tập trung. Thứ hai là tiếp xúc ngôn ngữ với bên ngoài cũng rất khác nhau, đa dạng và nhiều chiều. Điều đó đã có ảnh hưởng quyết định tới các chính sách ngôn ngữ truyền thống của mỗi Quốc gia, và nhìn rộng ra toàn khu vực, sẽ có ảnh hưởng tới chính sách ngôn ngữ của ASEAN thời hội nhập. Có lẽ sự phân tán ngôn ngữ là một trở ngại cần vượt qua trên con đường hướng tới tính cộng đồng của các nước trong hiệp hội.
5. Có lẽ trên thế giới ít có khu vực nào hẹp bằng Đông Nam Á mà lại có mật độ ngôn ngữ dày đặc và đa dạng như ở đây. ASEAN chia thành hai nhóm nước: đất liền và đa đảo/bán đảo. Các nước trên đất liền nằm giữa hai tiểu lục địa Ân Độ và Trung Hoa có những đặc điểm ngôn ngữ rất khu biệt. Mặc dù một số ngôn ngữ có mối liên hệ nguồn gốc Nam Á (như tiếng Việt) nhưng xét về loại hình đa số chúng là những ngôn ngữ đơn lập và có thanh điệu (Việt, Lào, Thái, Miến…), trong khi đó các ngôn ngữ đa đảo/bán đảo (Melayu, Tâgalog, từ Sumatra đến Philipin có cấu trúc hình thái pha chắp dính. Vòng quanh cái lòng chảo ASEAN còn có hàng trăm ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong khu vực bị chi phối bởi những ngữ tộc khác nhau: Hán Tạng, Mèo Dao, Môn Khơme trên đất liền và các ngôn ngữ Malay - Polinessia ở ngoài biển. Chúng có thể có những tiếp xúc, di chuyển nhưng cơ bản là vẫn khư trú theo khu vực địa lý. Ngôn ngữ, văn hoá và tôn giáo gắn quyện với nhau theo những tuyến đồng ngữ quốc tế (International Isoglos) khu biệt cương vị của các khu cư dân. Trong quá khứ, do sức sản xuất phát triển thấp và chậm, khả năng trao đổi kinh tế trong khu vực này rất thấp và hoàn toàn không tương xứng với tiềm năng của mỗi quốc gia. Đến khi chủ nghĩa kinh tế tư bản xuất hiện thì các tiếp xúc và trao đổi với bên ngoài lại là chính, khối luợng hàng hoá và các giao dịch trong nội khu vực là rất hạn chế. Trước năm 1945 hầu như cả khu vực rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân (Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Mỹ) các giao dịch thuơng mại và văn hoá của các Quốc gia thuộc địa chủ yếu hướng tới các nước chính quốc, vì vậy các trao đổi có tính khu vực lại càng hạn chế. Cái cảnh “ gần nhà xa ngõ” giữa các quốc gia Đông Nam Á là thực tế trong suốt một thời gian dài.
6. Tiếp xúc ngôn ngữ là một phổ niệm của địa ngôn ngữ. Cảnh huống tiếp xúc ngôn ngữ ở khu vực địa lý ASEAN cũng không giống như châu Âu, Tây Á hay Caribê. Có hai vấn đề lớn là ngôn ngữ và văn tự trong tiếp xúc. Trên phương diện ngôn ngữ, do tính đa dạng về loại hình ( cấu trúc ngôn ngữ), cộng với những cơ hội và rủi ro trong lịch sử, bản đồ tiếp xúc các ngôn ngữ ở đây cũng có hai nét: tiếp xúc nội khu vực và tiếp xúc với bên ngoài. Tiếp xúc ngôn ngữ với bên ngoài, trong quá trình lịch sử, chịu ảnh hưởng của di dân , thương mại và tôn giáo. Hai tuyến chính của các tiếp xúc vẫn thuộc về Ấn Độ và Trung Hoa. Tiếng Hán trong phạm vi khu vực đã có tiếp xúc với tiếng Nhật, Hàn và đi về phía nam tiếp xúc với Việt đã hai ngàn năm, sau đó tiến xuống phía nam gặp các ngôn ngữ Nam Á ở Malay và Singapore. Tuy nhiên cách thức tiếp xúc rất khác nhau: tiếng Việt đã hình thành cách đọc Hán Việt rất đặc sắc và không lặp lại ở các quốc gia phía
7. Trong khi đó nếu nói về tiếp xúc ngôn ngữ trong nội khu vực thì bức tranh ngôn ngữ cũng khá phân tán: Năm quốc gia nằm trên lục địa ( ba nước Đông Dương, Thái Lan và Mianma, ngoài đường biên giới lãnh thổ, có một bản đồ ngôn ngữ bị phủ rộng bởi các ngôn ngữ Thái, Việt và Môn-Khơme và các tiếp xúc ngôn ngữ là rõ rệt. Các ngôn ngữ có nguồn gốc Nam Á hiện diện ở một vài khu vực (chẳng hạn như ở Tây Nguyên, Việt
8. Tiếp xúc ngôn ngữ trên địa hạt văn tự ( chữ viết) cũng là một nét đặc thù của khu vực này. Hai dòng văn tự Ấn và Hán cũng khởi nguồn cho các tiếp xúc văn hoá và tôn giáo trong khu vực. Chứ viết có nguồn gốc Ấn Độ cổ (Xanscrit) được dùng để truyền bá kinh Phật về phía đông đến Tây Tạng và Trung Quốc, về phía Nam đến các quốc gia Banglades (ngày nay) , Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia. Sự tiếp xúc này, mà ngày nay nhiều quốc gia vẫn dùng chữ viết gốc Phạn, đã mang theo một khuếch tán khá lớn từ ảnh hưởng các ngôn ngữ gốc Ấn với nhóm Tày - Thái và Môn-Khơme, nhất là trên phương diện từ vựng, nhân danh và địa danh. Khác với chữ Phạn, chữ Hán đi xuống phía
9. Bây giờ xét đến chính sách ngôn ngữ. Nói đến chính sách là nói đến sự hoạch định quốc gia các chủ trương về ngôn ngữ xuất phát từ thực tế và mong muốn của mỗi nước. Bản đồ ngôn ngữ ASEAN khá phức tạp. Phần lớn các trong hiệp hội là quốc gia đa ngữ (Việt
10. Chính sách ngôn ngữ cụ thể, liên quan đến địa ngôn ngữ học, của các quốc gia trong hiệp hội ASEAN khá uyển chuyển. Trên khu vực lục địa, ba nước §ông Dương và Thái Lan, Mianma, mỗi nước có một ngôn ngữ của dân tộc đa số được chọn làm ngôn ngữ quốc gia ( Việt hơn 80%, Lào 70%, Thái gần 90%, Miến 70%, Khơme hơn 80%), và trong nội bộ mỗi ngôn ngữ quốc gia chính sách ấy cũng đuợc thể hiện khác nhau: Nhà nước Việt nam coi tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia đồng thời chủ trương phát triển và bảo lưu giá trị của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Lào cũng có một chính sách về bình đẳng các ngôn ngữ dân tộc, trong khi Thái Lan không công khai những quy định như thế. Tại quốc gia này dường như người ta khuyến khích việc hội nhập các ngôn ngữ thiểu số với ngôn ngữ quốc gia là tiếng Thái, trừ các ngôn ngữ Hoa và Mãlai. Tình hình ở các nước đảo/bán đảo lại có nét khác với lục địa. Tại ba quốc đảo
11. Trường hợp Philipin và
Xem như vậy thì thấy các quốc gia ASEAN xưa nay bận tâm với chính sách ngôn ngữ quốc gia nội địa hơn là nhìn ra viễn cảnh của cả khu vực. Cho nên, xét về Địa ngôn ngữ thì việc tìm kiếm một ngôn ngữ chung cho ASEAN trong tương lai từ nội bộ khu vực là rất khó khăn và chưa hiện thực. Sự phân ly và đa dạng ngôn ngữ ở đây chưa cho phép nghĩ đến nhất thể hoá các giao dịch ngôn ngữ bằng một ngôn ngữ bản địa nào đó của Hiệp hội. Việc lựa chọn tiếng Anh như một ngôn ngữ chung để giao tiếp trong ASEAN là một sự lựa chọn hợp lý và thực tế mà các quốc gia trong Hiệp hội chấp nhận hiện tại.
Ngay cả trường hợp tiếng Anh cũng phải bàn tiếp để có chính sách sử dụng có hiệu quả hơn trong toàn ASEAN.
Tiếng Anh xuất hiện ở Đông Nam Á như một hệ quả lịch sử. Hai tiểu lục địa Ấn Độ và Trung Hoa, vốn có nhiều giao lưu với ASEAN, đều có tiếp xúc nhiều với tiếng Anh. Hiện tại Ấn độ và hai nền kinh tế lớn thuộc Trung Quốc là Đài Loan và Hồng Kông đều sử dụng tiếng Anh rộng rãi. Trong khu vực ASEAN, thì
Từ các quan sát ba bình diện nói trên báo cáo này muốn nhấn mạnh vào mấy nhận xét sau đây trong cái nhìn Địa ngôn ngữ học liên quan đến ASEAN:
Thứ nhất: Đối với các ngôn ngữ bản địa
a - Cần tôn trọng thực tế ngôn ngữ đa dạng và sự phân cách giữa các ngôn ngữ thuộc các quốc gia ASEAN.
b - Khó có khả năng thu hẹp các khoảng cách ngôn ngữ giữa các quốc gia trong một thời gian không xa.
c - Các quốc gia cần tiếp tục các chính sách ngôn ngữ thực tế, hiện hữu phù hợp với những đặc điểm của từng nước.
d - Không nên đặt ra vấn đề tìm kiếm một ngôn ngữ thứ hai dùng chung cho ASEAN sau tiếng Anh, ở thời điểm hiện nay.
e - Trong mỗi quốc gia nên tôn trọng chính sách đa ngữ và sự lựa chọn ngôn ngữ quốc gia cũng như các ngôn ngữ phổ biến phù hợp với bản địa.
Thứ hai: Đối với ngôn ngữ sử dụng chung cho hiệp hội
a - Chấp nhận tiếng Anh như hiện nay là một giải pháp tốt nhất.
b - Cần ưu tiên việc dùng tiếng Anh trong hành chính, ngoại giao, thương mại và koa học – công nghệ trong giao dịch nội khối và đối ngoai
c- Tuỳ theo tốc độ hội nhập, các lĩnh vực khác sẽ nâng dần khả năng trao đổi bằng tiếng Anh trong khi vẫn giữ gìn năng lực và bản sắc các ngôn ngữ bản địa.
d - Riêng ba nước Đông Dương, do điều kiện lịch sử cụ thể, cần tăng tốc trong việc đào tạo và quảng bá tiếng Anh để một thời gian không xa đạt được mặt bằng sử dụng trong khu vực, đồng thời sớm có chính sách quốc gia trong việc sử dụng tiếng nước ngoài trong các hoạt động xã hội và dân sự.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ASEAN hôm nay và trong tương lai là mở rộng sự hội nhập về kinh tế và văn hoá. Cho đến nay sứ mạng này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của các nước trong khu vực. Kinh tế trao đổi trong nội khối còn giới hạn. Các trao đổi văn hoá còn đang đi những bước thăm dò. Một trong những hạn chế của điều này có sự phần của ngôn ngữ. Tính đa dạng và phân ly của các quan hệ ngôn ngữ trong toàn khối, tính đa ngữ trong nội bộ mỗi quốc gia đã tạo ra những ngăn cách trong giao tiếp và các trao đổi. Chính sách ngôn ngữ của mỗi quốc gia đều hướng nội để giải quyết các vấn đề thông tin của mình, chưa đặt ra vấn đề quảng bá và tiếp xúc. Trong khi đó, chính sách ngoại ngữ của các quốc gia trong hiệp hội lại không đồng đều và cũng chưa hướng tới một quan điểm chung. Tiếng Anh, với những áp lực từ trong quá khứ và các thách đố hiện tại, đang tạo ra những áp lực đôí với việc bảo vệ bản sắc văn hoá của từng quốc gia và dân tộc, đặt ngôn ngữ dân tộc, bản địa vào thế bất lợi nếu không tìm được những giải pháp hài hoà.
Tài liệu tham khảo
1- Cảnh huống và Chính sách ngôn ngữ ở các Quốc gia đa dân tộc, NXB KHXH,1997,Hà Nội.
2- Các dân tộc ở Đông Nam Á, NXB Văn hoá Dân tộc,1997, Hà Nội.
3- Mấy vấn đề Ngôn ngữ học và Văn học, NXB KHXH, 1997, Hà Nội.
4- Quảng cáo và ngôn ngữ Quảng cáo, NXB KHXH,2004, TP Hồ Chí Minh.
5- Robert Lado, Ngôn ngữ học qua các nền văn hoá, NXB §HQG HN, 2003, Hà Nội.
6- Robins, Lược sử Ngôn ngữ học, NXB §HQG, 2003, Hà Nội.
7- Rozdextvenxki, Các bài giảng Ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo dục, 1997, Hà Nội.
Ịuen. Ren Chao, Laguage and Symbolic Systems,