Tin tức chung
Trang chủ   >  Tin tức  >   Tin tức chung  >  
Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu lưu trữ
Hiện nay Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Centre des Archives d’Outre-Mer) tại Aix-en Provence (miền Nam nước Pháp) và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội) còn bảo quản một khối lượng lớn tài liệu về Đại học Đông Dương (Université Indochinoise) từ khi thành lập (1906) cho đến khi người Pháp chính thức rời khỏi Việt Nam (1954).

Những tài liệu này chủ yếu tập trung trong các phông Phủ Toàn quyền Đông Dương (fonds du Gouvernement général de l’Indochine - GGI), phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (fonds de la Résidence supérieure au Tonkin - RST) và khối tài liệu của Bộ Pháp quốc Hải ngoại (Ministère de la France d’Outre-Mer - FOM). Ngoài ra, hai Trung tâm Lưu trữ Quốc gia này còn bảo quản một khối lượng lớn những tài liệu khác có liên quan trực tiếp đến sự ra đời và phát triển của trường Đại học Đông Dương (ĐHĐD) và về hai cuộc cải cách giáo dục ở Đông Dương do hai viên Toàn quyền Pháp là Paul Beau và Albert Sarraut là những người khởi xướng. Bài viết sẽ giới thiệu hai tài liệu quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với việc xác định mốc thời gian ra đời của trường đại học nổi tiếng này.

Tài liệu thứ nhất: Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 do Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ban hành. Nghị định này có một tầm quan trọng đặc biệt vì nó chính là văn bản khai sinh ra trường đại học đầu tiên theo mô hình của Pháp tại Đông Dương.

Điều 1 của Nghị định ghi rõ:

“Nay thành lập ở Đông Dương, dưới tên gọi trường đại học, một tập hợp các khoá đào tạo bậc đại học cho các sinh viên xứ thuộc địa và các nước láng giềng.

Cơ sở đào tạo này có nhiệm vụ phổ biến ở Viễn Đông, chủ yếu là thông qua tiếng Pháp, những kiến thức về các ngành khoa học và các phương pháp châu Âu” (1)

Mục đích thành lập Trường được ghi rõ trong Nghị định số 1514a là nhằm “đào tạo nhân viên bản xứ cho các bộ máy hành chính địa phương hoặc các cơ quan chuyên môn thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương” (điều 9).

Theo Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906, trường ĐHĐD được tổ chức bởi 5 trường thành viên:

1. Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính (Ecole supérieure de Droit et Administration) gồm ba khoa dự kiến được thành lập bởi Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l’Enseignement Indigène), trong đó khoa thứ nhất đã có từ trước, đó chính là trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d’Administration de Hanoi) được thành lập theo Nghị định ngày 20-6-1903, là nơi đào tạo nên hệ thống quan lại cho bộ máy hành chính người bản xứ.

2. Trường Cao đẳng Khoa học (Ecole supérieure des Sciences): gồm các ngành Toán, Vật lý, Hóa học và sinh vật. Nhiệm vụ của trường là đào tạo những người làm công tác nghiên cứu khoa học và những giáo viên trung học hoặc cao đẳng sư phạm. Trường được trang bị các phòng thí nghiệm và khoá học của năm thứ nhất thì không phải chỉ dành riêng cho sinh viên của trường này mà còn cho sinh viên của các trường khác như trường Y, trường Xây dựng dân dụng.

3. Trường Cao đẳng Y khoa (Ecole supérieure de Médecine): đây chính là Trường Y khoa Hà Nội (Ecole de Médecine de Hanoi) được thành lập theo Nghị định ngày 8/1/1902 và được tổ chức lại theo Nghị định ngày 25/10/1904 do Toàn quyền Paul Beau ký ban hành. Theo Nghị định ngày 25/10/1904, trường Y Hà Nội được đổi tên thành trường Y Đông Dương (Ecole de Médecine de l’Indochine). Nhiệm vụ của trường là đào tạo y sĩ và dược sĩ phụ tá (médecin et pharmacien auxiliaire), hạn học 4 năm về y tá và 3 năm về dược. Trong trường còn có lớp nữ hộ sinh bản xứ (sage-femme indigène), học trong hai năm.

4. Trường Cao đẳng Xây dựng dân dụng (Ecole supérieure du Génie Civil) với ba khoa dự kiến được thành lập, trong đó khoa Cầu - Đường bộ, Đường sắt và Mỏ chính là những ngành của trường Công chính (Ecole des Travaux publics) được thành lập theo Nghị định ngày 22/2/1902.

5. Trường Cao đẳng Văn chương (Ecole supérieure des Lettres): dạy Ngôn ngữ và Văn học cổ điển phương Đông, Lịch sử và Địa lý các nước Viễn Đông, Lịch sử văn học Pháp và nước ngoài, Lịch sử triết học và Lịch sử nghệ thuật.

Kèm theo Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 là bản Nội quy của Trường do Tổng Giám đốc Học chính (Directeur général de l’Instruction publique) Gourdon ký ngày 12/10/1907, xác định rõ thành phần sinh viên cùng đội ngũ giáo viên và chương trình của năm học đầu tiên 1907-1908 (2)

Bổ sung cho Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 là hai Nghị định số 577 và 578 cùng ngày 17/2/1908 do Toàn quyền Paul Beau ký về việc thành lập Ban Thư ký và bổ nhiệm ông Hanri Russier làm Thư ký trường ĐHĐD (3)

Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 và những tài liệu đi kèm cho chúng ta thấy, ĐHĐD được thành lập trên cơ sở một số trường đã được thành lập trước đó và có mở thêm một số ngành đào tạo mới. Điều đó chứng tỏ rằng, sự thành lập ĐHĐD không phải là một việc làm hứng thú nhất thời của một cá nhân nào mà sự kiện này là kết quả của một quá trình vận động logic trong lịch sử. Quá trình vận động đó, qua tài liệu lưu trữ, chính là cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất ở Đông Dương mà Paul Beau là người khởi xướng, bắt đầu bằng việc thành lập Sở học chính, một tổ chức “chịu trách nhiệm đưa ra một sự xung động toàn thể về sự nghiệp giáo dục trong toàn xứ Đông Dương” do Gourdon làm Tổng Giám đốc.

Chính thức nhậm chức Toàn quyền ngày 15/10/1902, ngay từ 1904, Paul Beau đã ký nhiều nghị định nhằm xác định những nét lớn trong tổ chức giáo dục Pháp-bản xứ, trong đó có Nghị định thành lập Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l’Enseignement Indigène) được Paul Beau ký ngày 9/3/1906.

Với trách nhiệm “nghiên cứu những điều kiện để thành lập và hoạt động của một trường đại học gồm các môn giảng dạy ở bậc đại học dành cho người bản xứ và người châu á” (4), vào ngày 11/4/1906, trong phiên họp thứ nhất, sau nhiều cuộc tranh luận, Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ đã nhất trí đề nghị lên Toàn quyền việc thành lập ĐHĐD và được Toàn quyền chuẩn y bằng Nghị định số 1514a ngày 16-5-1906 như đã giới thiệu ở trên.

Trường được phép làm lễ khánh thành bằng Nghị định ngày 12/6/1907 và ngày 10/11/1907, lễ khánh thành được tổ chức tại Phủ toàn quyền cũ (khu nhượng địa) ở Hà Nội, dưới sự chủ tọa của Thống sứ Bắc Kỳ De Miribel.

Cuối tháng 11/1907, Trường đã tổ chức lễ khai giảng đầu tiên với sự có mặt của 94 sinh viên mới, 62 sinh viên dự thính và 37 sinh viên năm thứ nhất trường Y sẽ tham dự một số giờ học của môn khoa học của Trường, tổng cộng gồm 193 sinh viên (5). Trong năm học đầu tiên này, một số viên chức các sở chuyên môn tuy không theo học chính thức nhưng cũng được phép tham gia các giờ thực hành tại các trường thuộc ĐHĐD (6).

Tuy nhiên, sau khi năm học đầu tiên này kết thúc, ĐHĐD đã đột ngột đóng cửa, không bởi một văn bản pháp lý nào, không cả một lời giải thích của bất cứ một vị quan chức nào trong bộ máy chính quyền thuộc địa.

Mặc dù ĐHĐD đã phải đóng cửa sau một năm hoạt động vì chương trình đào tạo của nó còn nhiều điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế lúc đó, song thực tế cũng đã chứng minh rằng, những sinh viên được ĐHĐD đào tạo dù chỉ trong một năm học cũng đã không ngừng đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều sinh viên của Trường đã tiếp thu được những khái niệm vững chắc cần thiết cho nghề nghiệp của họ, sự ham thích thực sự đối với khoa học, và nhất là về phương pháp giảng dạy, phương pháp mà sau này đã được phát hiện trong rất nhiều sách giáo khoa phổ biến khoa học tập hợp về sau do một vài người trong số họ soạn ra (7).

Trong vòng 10 năm, từ giữa 1907 đến 1917, sau cuộc cải cách của Paul Beau, nền giáo dục bậc cấp 2, cả giáo dục bản xứ lẫn giáo dục Pháp ở Đông Dương đã phát triển tốt hơn chuẩn bị cho những sinh viên theo được giáo dục cấp 3, tạo điều kiện vững chắc cho sự hồi sinh của ĐHĐD vào năm 1917. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất của Paul Beau, trên thực tế, đã đặt nền móng cho toàn bộ nền giáo dục ba cấp của Pháp ở Việt Nam.

Có thể nói rằng, sự ra đời của ĐHĐD gắn liền với tên tuổi của Paul Beau, Toàn quyền thứ 13 của Pháp ở Đông Dương và quá trình hình thành trường đại học đầu tiên của xứ thuộc địa này cũng gắn liền với công cuộc cải cách giáo dục ở Đông Dương mà Paul Beau là người khởi xướng.

Tài liệu thứ hai: bộ “Học chính tổng quy” (Règlement général de l’Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut ban hành bằng Nghị định ngày 21-12-1917(8).

Với 7 chương gồm 558 điều, bộ “Học chính tổng quy” của Albert Sarraut đã chia nền giáo dục ở Việt Nam làm 3 cấp:

+ Đệ nhất cấp: hệ tiểu học (Enseignement primaire) bao gồm các trường tiểu học toàn cấp (Ecoles Primaire de plein exercice) và các trường sơ đẳng tiểu học (Ecole Primaire Elémentaire).

+ Đệ nhị cấp: hệ trung học gồm cao đẳng tiểu học (học trong 4 năm để thi lấy bằng cao đẳng tiểu học, gọi là bằng Thành chung hay Diplôme) và trung học, học trong 2 năm để thi lấy bằng Tú tài (Diplome de bachelier)

Toàn bộ các trường tiểu học và trung học đều nằm trong hệ thống các trường Pháp-Việt. Ngoài ra còn có hệ thực nghiệp ở lẫn trong cả hai bậc giáo dục: ở bậc tiểu học có các trường dạy nghề mộc, rèn, nề, trường gia chánh (Ecole ménagère). ở bậc trung học có các trường thực nghiệm toàn cấp (Ecole professionnelle de plein exercice). Theo quy định của bộ “Học chính tổng quy”, hệ phổ thông sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh sẽ thi vào các trường cao đẳng, còn hệ thực nghiệp thì tùy tính chất của từng loại trường và số năm học (tương ứng với tiểu học hoặc trung học), sau khi tốt nghiệp sẽ làm việc ở các cơ sở sản xuất.

+ Hệ cao đẳng: về nguyên tắc tổ chức, các trường Cao đẳng Đông Dương họp lại thành trường ĐHĐD nhưng trên thực tế, các trường Cao đẳng này chưa thành lập hết nên trong “Học chính tổng quy”, hệ cao đẳng chỉ được nêu một cách khái quát như sau:

- Trường Sĩ hoạn ở Hà Nội (Ecole des Mandarins à Hanoi) và trường Hậu bổ ở Huế (Ecole d’Administration à Hué) là những trường chuyên đào tạo quan lại, theo quy chế này sẽ ngừng hoạt động và tổ chức lại trực thuộc Giám đốc ĐHĐD quản lý.

- Trường Y Đông Dương (Ecole de Médecine de l’Indochine) thành lập theo Nghị định ngày 25/10/1904 và trường Cao đẳng Thú y Đông Dương (Ecole Supérieure Vétérinaire de l’Indochine) thành lập theo Nghị định ngày 15/9/1917 vẫn tiếp tục hoạt động.

- Trường Công chính (Ecole des Travaux publics) thành lập theo Nghị định ngày 22/2/1902 và tổ chức lại theo Nghị định ngày 15/4/1913 sẽ trực thuộc vào Giám đốc ĐHĐD.

- Bỏ các lớp dạy luật (Cours de Droit) được thành lập theo Nghị định ngày 29/3/1910.

Bổ sung cho Nghị định ngày 21/12/1917 ban hành bộ “Học chính tổng quy” là Quy chế chung về giáo dục bậc Cao đẳng ở Đông Dương (Règlement général de l’Enseignement supérieur) (9) được Toàn quyền Albert Sarraut ban hành lần đầu tiên bằng Nghị định ngày 25-12-1918 và sau đó không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế (10). Đây là một văn bản có tính chất pháp lý quan trọng đối với giáo dục bậc cao đẳng ở Đông Dương nói chung và đối với tổ chức ĐHĐD nói riêng.

Như vậy là, trên thực tế, kể từ khi ĐHĐD do Toàn quyền Paul Beau sáng lập ra theo Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 đã ngừng hoạt động không bởi một văn bản pháp lý nào cho tới khi Nghị định ngày 31/12/1917 được Toàn quyền Albert Sarraut ban hành, chính quyền thuộc địa đã không ra thêm một văn bản nào khác về ĐHĐD. Điều này hoàn toàn logic bởi vì người ta không thể ra một văn bản để thành lập một tổ chức vẫn còn đang tồn tại dù chỉ là trên giấy tờ. Hơn nữa, ĐHĐD được nhắc tới trong bộ “Học chính tổng quy” này, về thực chất, được tập hợp từ các trường thành viên của ĐHĐD do Paul Beau sáng lập ra. Có thể nói rằng, nếu sự ra đời của ĐHĐD gắn liền với chương trình cải cách giáo dục lần thứ nhất của Pháp ở Việt Nam mà Paul Beau là người khởi xướng thì sự tái thành lập của Trường lại không thể tách rời chương trình cải cách giáo dục lần thứ hai của Albert Sarraut, Toàn quyền thứ 23 của Pháp ở Đông Dương (11). Với bộ “Học chính tổng quy”, Albert Sarraut đã làm cho trường ĐHĐD được hồi sinh sau 10 năm ngừng hoạt động.

Hai tài liệu trên đây là những chứng cứ xác thực để chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: trường Đại học Đông Dương được thành lập ngày 16/5/1906 và được tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong lịch sử giáo dục ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng bắt đầu từ ngày 31/12/1917. Những chứng cứ này tồn tại một cách khách quan, đang được lưu giữ tại các cơ quan lưu trữ Việt Nam và Pháp là những tư liệu đáng tin cậy cho những ai quan tâm nghiên cứu về lịch sử Đại học Đông Dương và lịch sử giáo dục đại học Việt Nam.

Nhắc lại câu nói của Seignobos, nhà sử học nổi tiếng của Pháp vào trước năm 1914: “Không có tài liệu, không có gì để viết” (Sans documents, il n’y a pas d’histoire à écrire) (12), tác giả bài này hy vọng những tài liệu được giới thiệu trên đây sẽ đóng góp tích cực vào công trình nghiên cứu của Đại học Quốc gia Hà Nội mang tên “Đại học Đông Dương - Đại học Quốc gia Hà Nội - chặng đường một thế kỷ”, công trình khoa học chào mừng lễ kỷ niệm 100 năm Đại học Đông Dương ở Việt Nam.

-----------------------

(1) Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp (Centre des Archives d’Outre-Mer à Aix-en Provence - CAOM), GGI, hồ sơ: 48.042.

(2) CAOM, GGI, hồ sơ: 48.042.

(3) CAOM, GGI, hồ sơ: 48.041.

(4) Direction de l’Instruction Publique - C. Mus, Directeur de l’Ecole supérieure de Pédagogie de l’Université Indochinoise: “La Première Universitộ Indochinoise”, Hanoi, Imprimerie G. Taupin & Cie, 1927, tr. 2.

(5) “La Première Université Indochinoise”, Sđd, tr.8.

(6) Có hai viên chức thuộc Sở Nông Lâm Thương mại Đông Dương được phép tham gia các giờ thực hành tại các trường thuộc Đại học Đông Dương: Bùi Văn Thuận, nhân viên chính ngạch hạng hai và Nguyễn Như Phan, phụ tá thư ký hạng hai được phép theo các môn Hoá học đại cương, Hoá công nghiệp, Thực vật và Động vật. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (TTLTQG I), GGI, hồ sơ: 2819.

(7) Trần Văn Thông (Đốc học, Directeur des cours à l’Ecole des Hậu bổ ): “ấu học Quốc ngữ Tân thư”, Hà Nội - Hải Phòng, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1908. Sách gồm 2 phần: phần I có 3 tập: tập 1 (Toán pháp); tập 2 (Địa dư); tập 3 (Cách trí - Vệ sinh); phần II: Cai trị - Lễ pháp - Phong tục.

(8) Journal officiel de l’Indochine francaise, số 29, ngày 10/4/1918, tr. 607.

(9) Direction de l’Instruction publique: Réglement général de l’Enseignement supérieur, deuxième édition, Hanoi - Haiphong, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1921.

(10) Nghị định ngày 25/12/1918 được bổ sung và sửa đổi bằng các Nghị định ngày 13/12/1923, 17/10/1924, 8/5/1926, 2/7/1926, 19/10/1927, 26/4/1928, 4/11/1928, 31/7/1929 và 30/11/1930 của Toàn quyền Đông Dương.

(11) Albert Sarraut được bổ nhiệm làm Toàn quyền của Pháp ở Đông Dương hai lần. Lần thứ nhất được bổ nhiệm bởi Sắc lệnh ngày 1/6/1911, chính thức nhậm chức ngày 15/11/1911 và lần thứ hai được bổ nhiệm bởi Sắc lệnh ngày 7/11/1916, chính thức nhậm chức ngày 22/1/1917.

(12) Trích theo Bùi Quang Tung (Membre de l’Ecole francaise d’Extrême - Orient): Pour une meilleure conservation des Archives vietnamiennes, France - Asie, N. 109-110, juin-juillet 1955, tr. 742.

 TS. Đào Thị Diến - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia - VNU Media
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   |