Tin tức chung
Trang chủ   >  Tin tức  >   Tin tức chung  >  
Chương trình Tây Bắc: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
Ngày 14/12/2019 tại tỉnh Thái Nguyên, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Tỉnh ủy Thái Nguyên tổ chức Hội thảo Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Dự và chủ trì Hội nghị các đồng chí: Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 37-NQ/TW; dự Hội nghị còn có đại diện lãnh đạo các ban, ngành Trung ương, đại diện lãnh đạo của 16 tỉnh trong vùng trung du và miền núi Bắc Bộ cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học.

 

Giám đốc ĐHQGHN Nguyễn Kim Sơn trình bày tham luận tại hội thảo

Giám đốc Nguyễn Kim Sơn Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Nhà nước “Khoa học và Công nghệ phục vụ Phát triển Bền vững vùng Tây Bắc” dự và phát biểu tham luận tại hội thảo với nội dung: “Phát triển bền vững vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: Quan điểm và giải pháp thực hiện”.

Theo đánh giá của hội nghị, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: Tốc độ tăng GDP toàn vùng giai đoạn 2004 - 2018 tăng bình quân 10%; GRDP bình quân đầu người năm 2018 đạt 44,86 triệu đồng/người, gấp gần 12,9 lần so với 2004; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, theo hướng hiện đại; đã phát huy được nội lực, thu hút mạnh các nguồn lực để tập trung đầu tư vào khu vực; an ninh - chính trị được ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao… Có 9/12 chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết 37- NQ/TW đề ra; có 1/12 chỉ tiêu khả năng đạt được vào 2020; có 2/12 chỉ tiêu chưa hoàn thành.

 

Các đại biểu thăm quan gian trưng bày các sản phẩm nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên

Tuy nhiên, đến nay, trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Quy mô kinh tế còn nhỏ so với các vùng khác; nhiều tiềm năng, lợi thế chưa được khai thác hết hoặc được vận hành chưa phù hợp; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững; chuyển dịch cơ cấu kinh tế của phần lớn các địa phương chậm; cơ cấu kinh tế chưa mang dấu ấn vùng. Tỷ lệ đạt tiêu chí nông thôn mới vùng còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao, đến cuối năm 2018 là 15,82%...

Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến nhằm phát triển bền vững vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với các nội dung chủ yếu như: Thể chế liên kết, điều phối phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng; định hướng chính sách trong vấn đề giảm nghèo; những đột phá trong bối cảnh mới để phát triển du lịch vùng; phát triển kinh tế cửa khẩu gắn với du lịch và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; cơ chế, chính sách huy động và phân bổ các nguồn lực; định hướng phát triển thương mại biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng...

Phát biểu kết luận Hội thảo, đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 37-NQ/TW đánh giá cao những ý kiến tham luận tâm huyết, trách nhiệm của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý. Đồng chí nhấn mạnh: Nghị quyết 37- NQ/TW đã đi vào cuộc sống; tác động lớn đến mọi mặt đời sống các địa phương trong vùng; là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh các địa phương trong vùng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Các tham luận, trao đổi đã làm sâu sắc hơn về những kết quả trong triển khai chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ thời gian qua. Thời gian tới, phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi Bắc Bộ phải phù hợp với các chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững; lấy kết cấu hạ tầng giao thông là đột phá; nông nghiệp, công nghiệp chế biến và du lịch là nền tảng; bảo vệ an ninh sinh thái và quốc phòng an ninh là then chốt; hướng tới hình thành không gian kinh tế vùng; dựa vào nội lực là chính nhưng nguồn đầu tư của Trung ương vẫn đóng vai trò quan trọng để dẫn dắt và khai thông các nguồn lực tại chỗ...

Trong tham luận của Giám đốc ĐHQGHN Nguyễn Kim Sơn trình bày tại hội thảo, kết quả nghiên cứu Chương trình Tây Bắc mà ĐHQGHN là đơn vị chủ trì cho thấy, Tây Bắc là một trong những vùng mà thực tiễn phát triển đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nóng bỏng nhất. Đó là hiện tượng suy thoái và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường do khai thác, sử dụng không đúng các nguồn khoáng sản; đó là tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao nhất cả nước, nhất là trong các cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa; đó là tình trạng kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực còn ở mức thấp, cho nên Tây Bắc cũng là nơi có nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhất; đó là nơi các tệ nạn xã hội và tội phạm (buôn lậu ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em, buôn lậu qua biên giới,…) gia tăng nhanh chóng. Đây cũng là địa bàn luôn ẩn chứa những nguy cơ dẫn đến sự kỳ thị, chia rẽ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, là địa bàn mà các thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ, an ninh quốc gia,… Giám đốc nhấn mạnh, việc tiếp tục tổ chức, triển khai nghiên cứu về phát triển bền vững là xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn nóng bỏng của vùng Tây Bắc.

Với quan điểm coi sự nghiệp phát triển khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã giao ĐHQGHN chủ trì triển khai Chương trình Tây Bắc giai đoạn 2013-2020 với tầm nhìn chiến lược mang tính đột phá, tiếp cận và giải quyết các vấn đề của vùng theo quan điểm phát triển bền vững, tương xứng với vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn của vùng trong chiến lược phát triển của đất nước và chủ trương của Bộ Chính trị thể hiện ở Nghị quyết số 37/NQ-TW, ngày 01/7/2004.

Vùng Tây Bắc là vùng còn nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội vì vậy càng phải dựa vào KH&CN để phát triển bền vững, ứng phó với biến động toàn cầu trong đó có biến đổi khí hậu. Từ thực tiễn nghiên cứu, Giám đốc Nguyễn Kim Sơn mong rằng cần tiếp tục phải triển khai nghiên cứu về phát triển bền vững ở khu vực này để góp phần tạo nên một nền tảng, một đòn bẩy tri thức - công nghệ - văn hóa - xã hội mạnh mẽ cho chiến lược phát triển bền vững vùng Tây Bắc, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân các dân tộc trong vùng và góp phần tư vấn tổng kết Nghị quyết 37/NQ-TW của Đảng, Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng nhằm đưa các Nghị quyết, chủ trương, chính sách mới giai đoạn 2020-2025 của Đảng và Nhà nước trên nền tảng khoa học và công nghệ vào cuộc sống.

Chương trình Tây Bắc sau 6 năm triển khai đã có 55 đề tài và 03 dự án đã được chọn lọc, trích xuất và tổng hợp để góp ý Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ 14 tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, chuẩn bị để tư vấn các địa phương cho nhiệm kỳ mới 2020-2025.

Giám đốc Nguyễn Kim Sơn báo cáo, 100% các nhiệm vụ đã và đang được chuyển giao/bàn giao cho các bộ, ban, ngành, địa phương… góp phần xây dựng, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực; Góp phần đổi mới, đa dạng hóa sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong vùng và đảm bảo tốt hơn an sinh xã hội, an ninh quốc phòng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; Đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng xã hội, giữa phát triển nhanh với bảo tồn, bảo vệ di sản văn hóa truyền thống và cảnh quan, môi trường.

Giám đốc nhấn mạnh, trong phát triển bền vững vùng Tây Bắc đặc biệt phải chú ý đến các đặc thù về môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của vùng. Các đặc thù này đã được lồng ghép, phản ánh trong bộ chỉ tiêu triển bền vững theo lĩnh vực và lãnh thổ vùng Tây Bắc với 105 chỉ tiêu cấp vùng, 103 chỉ tiêu cấp tỉnh và 79 chỉ tiêu cấp huyện.

Sau khi phân tích các lợi thế, khó khăn của vùng, với tư cách là đơn vị chủ trì đề tài, để thực hiện phát triển một cách bền vững và hiệu quả, Giám đốc Nguyễn Kim Sơn đã đưa ra những việc cần triển khai về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng như cần lấy khối kinh tế tư nhân làm chủ lực phát triển kinh tế, phát huy nội lực, thúc đẩy tinh thần doanh nhân của người dân vùng Tây Bắc, xóa bỏ tâm lí ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ, ưu đãi của người dân. Chuyển từ trọng tâm hỗ trợ người dân sang hỗ trợ doanh nghiệp, tạo ra các doanh nghiệp nòng cốt, doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng ở cả vùng Tây Bắc. Nhà nước cần thúc đẩy để giữ ổn định chính sách thương mại biên giới. Giảm nghèo đa chiều gắn với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới với bốn nhóm tiêu chí quan trọng là sinh kế cho người dân, sức khỏe và dinh dưỡng, giáo dục và điều kiện sống và gắn với phát triển nông nghiệp và nông thôn. Giảm nghèo đa chiều phải gắn các hoạt động xóa đói, giảm nghèo với nhiệm vụ phát triển nông thôn...

Để phát triển bền vững vùng Tây Bắc, đặc biệt để đạt được chỉ số phát triển bền vững tổng hợp đến 2030, tầm nhìn 2045 ở mức trung bình khá (0,6-0,7) cần phải quán triệt quan điểm sau: Những vấn đề phát triển bền vững có sự thay đổi ít thuận lợi: cần bổ sung các biện pháp để thúc đẩy việc thực hiện các chính sách liên quan trực tiếp đến sự phát triển chỉ tiêu hoặc các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến chỉ tiêu.

Giám đốc, Chủ nhiệm Chương trình Tây Bắc Nguyễn Kim Sơn kiến nghị một số giải pháp chính sau: Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông đồng bộ, hiện đại. Xây dựng chính sách phát triển hàng hóa, lựa chọn danh mục các hàng hóa nông sản chủ lực, có thế mạnh đặc trưng của Tây Bắc để phát triển thành các chuỗi giá trị nông sản, hướng đến xuất khẩu và phát triển bền vững: i) Xây dựng chính sách hỗ trợ về thông tin thị trường và xúc tiến thương mại, chỉ dẫn địa lý; nâng cao hiệu quả công tác dự báo cung cầu, giá cả hàng hóa và dịch vụ; ii) Tăng cường áp dụng KHCN vào sản xuất, bảo quản và chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp nhằm giảm thiểu chi phí và nâng cao chất lượng, tăng giá trị tăng thêm và sức cạnh tranh; iii) Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với phát huy lợi thế, thế mạnh của từng địa phương; iv) Tạo lập các mối quan hệ, liên kết kinh tế - thương mại với các tỉnh trong cả nước nhằm tạo ra những vùng sản xuất lớn, tạo thế mạnh nhất định về sản xuất và xuất khẩu, cạnh tranh và thu hút đầu tư.

Xây dựng các mô hình chuỗi giá trị nông sản, dược liệu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững ở Tây Bắc, trong đó doanh nghiệp làm trung tâm của chuỗi.

Xây dựng các mô hình kinh tế sinh kế, du lịch sinh thái nhằm khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có của Tây Bắc, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của từng tỉnh, tiểu vùng.

Phát triển chính sách tài chính toàn diện nhằm tạo hạ tầng tài chính cho phát triển kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư doanh nghiệp tại Tây Bắc tạo đà cho tăng trưởng kinh tế vùng đến năm 2045. Khuyến khích phát triển các sản phẩm có giá trị theo quy mô nhỏ và vừa, phù hợp với đặc điểm của kinh tế hộ, nhất là ở các huyện nghèo, xã nghèo và đồng bào các dân tộc thiểu số. 

Bên cạnh các kiến nghị về chính sách kinh tế, Giám đốc cũng kiến nghị một số vấn đề xã hội liên quan đến đảm bảo an ninh quốc phòng. Trong đó, lưu ý chú trọng quy định về lồng ghép chặt chẽ và hài hòa nhiệm vụ bảo vệ môi trường, ứng phó với tai biến thiên nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu vào trong chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển trên quan điểm “Chủ động phòng, tránh, thích nghi để phát triển”.

Giám đốc Nguyễn Kim Sơn nhận định, sự phát triển bền vững của Tây Bắc mang lại lợi ích trước hết cho đồng bào các dân tộc ở vùng Tây Bắc, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng và của quốc gia.

Tham luận và kết quả nghiên cứu Chương trình Tây Bắc của ĐHQGHN đã được các đại biểu tại hội nghị đánh giá rất cao về tính khoa học và tính thực tiễn. Những ý kiến, đề xuất tại Hội thảo sẽ được Tổ Biên tập chắt lọc, tổng hợp đưa vào Báo cáo tổng kết Nghị quyết 37- NQ/TW, đảm bảo phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ tổng kết đề ra, báo cáo Ban Chỉ đạo trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

>>>>> Các tin bài liên quan:

- Chương trình Tây Bắc: Nhiều đề tài triển khai tại Lào Cai có tác động tốt đến hoạch định chính chính sách của tỉnh.

- Phát triển nguồn nhân lực vùng Tây Bắc - Cần giải pháp cấp bách và lâu dài

- Chương trình Tây Bắc: Ứng dụng công nghệ lấy nước kiểu ngầm cho tỉnh Lào Cai

- Nâng cao giáo dục tại vùng Tây Bắc bằng công tác đánh giá tác động của các chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo

- Chung tay phát triển bền vững vùng Tây Bắc

 VNU Media
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   | 328   | 329   | 330   | 331   | 332   | 333   | 334   | 335   | 336   | 337   | 338   | 339   | 340   | 341   | 342   | 343   | 344   | 345   | 346   | 347   | 348   | 349   | 350   | 351   | 352   | 353   | 354   | 355   | 356   | 357   | 358   | 359   | 360   | 361   | 362   | 363   | 364   | 365   | 366   | 367   | 368   | 369   | 370   | 371   | 372   | 373   | 374   | 375   | 376   | 377   | 378   | 379   | 380   | 381   | 382   | 383   | 384   | 385   | 386   | 387   | 388   | 389   | 390   | 391   | 392   | 393   | 394   | 395   | 396   | 397   | 398   | 399   | 400   | 401   | 402   | 403   | 404   | 405   | 406   | 407   | 408   | 409   | 410   | 411   | 412   | 413   | 414   | 415   | 416   | 417   | 418   | 419   | 420   | 421   | 422   | 423   | 424   | 425   | 426   | 427   | 428   | 429   | 430   | 431   | 432   | 433   | 434   | 435   | 436   | 437   | 438   | 439   | 440   | 441   | 442   | 443   | 444   | 445   | 446   | 447   |