ĐHQGHN - Dấu ấn trong tôi
Trang chủ   >  ĐHQGHN - Dấu ấn trong tôi  >    >  
Đại học nghiên cứu
Một trường đại học (ĐH) hiện đại, chất lượng cao phải là nơi giao thoa của 3 chức năng: đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) và phục vụ xã hội (PVXH). Trong đó, NCKH có tác động quyết định tới chất lượng của hai chức năng kia và tới chất lượng chung của nhà trường. Nếu trường đại học không có nghiên cứu khoa học thì chỉ nên xem là… “trường phổ thông cấp ba rưỡi”.

Khái niệm đại học nghiên cứu (ĐHNC) xuất hiện đầu tiên ở Đức, ngay từ cuộc cách mạng Nông nghiệp. Lý do rất đơn giản là Nông nghiệp có tính chất đặc trưng rất rõ cho từng vùng. Do đó, để giảng dạy nông nghiệp phải nghiên cứu thực tế. Từ đó, ĐHNC đ­ược phát triển ở nhiều nư­ớc, đặc biệt là ở Mĩ và trở thành mô hình đại học đa ngành chất l­ượng cao ở mỗi nư­ớc.

Hiện nay, khái niệm ĐHNC được nâng cao hơn theo triết lý giáo dục là “học để làm những điều chưa học, học cách học suốt đời. Muốn vậy, người thầy không những phải nghiên cứu giỏi mà còn phải có cách đào tạo giỏi - đào tạo qua nghiên cứu và cho nghiên cứu. Nói một cách khái quát, trong ĐHNC, hàm lượng NCKH rất cao trong mọi lĩnh vực hoạt động.

ĐHNC mang một số đặc trưng: Quy mô lớn, tính liên ngành cao. Trường có hàng trăm mã ngành/chương trình đào tạo. (ĐH Callifornia, Mĩ có gần 600 chương trình đào tạo ở cả ba bậc, cử nhân (CN), thạc sĩ (Ths) và tiến sĩ (TS); ĐH Thanh Hoa, Trung Quốc có hơn 100 chương trình ĐH, 158 chương trình Ths và 114 chương trình TS...); Hoạt động chủ yếu của đội ngũ cán bộ là nghiên cứu khoa học và giảng dạy; Đội ngũ cán bộ có chất lư­­­ợng cao và có quyền tự chủ cao trong hoạt động, đặc biệt là trong NCKH; Kinh phí nghiên cứu khoa học lớn và chủ yếu có từ các nguồn bên ngoài (chiếm > 50% tổng thu của trường); Các điều kiện nghiên cứu đầy đủ về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và thông tin; Số l­­­ượng sinh viên sau đại học (đặc biệt là nghiên cứu sinh - NCS) lớn và là lực l­ư­­ợng nghiên cứu quan trọng của trư­­­ờng (thường > 50%);

Mĩ có khoảng 4.000 tr­­ường ĐH & CĐ, trong đó hơn 160 là ĐHNC (chiếm 4% tổng số). Đó là những tr­ư­ờng danh tiếng nhất, tập trung đội ngũ giáo chức có trình độ cao, đầu ngành, chất lư­­ợng đào tạo cao. Ví dụ: ĐH Callifornia, Harvard, Princeton, Stanford, Yale…. Hàn Quốc có khoảng 200 tr­­ường ĐH (40 trư­­ờng công - national universities và 160 tr­­ường t­­ư), trong đó có khoảng 20 tr­ư­ờng (10%) là ĐHNC.

Ở Mỹ, ĐHNC có những chức năng: Đào tạo thế hệ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy đại học kế cận; Nghiên cứu cơ bản (khám phá những điều mới trong khoa học và công nghệ); Nghiên cứu ứng dụng (đáp ứng nhu cầu XH, đem lại lợi ích cho trường và cá nhân); Là đầu mối liên kết, tập hợp các cơ quan và các nhà khoa học trong các lĩnh vực có liên quan; và Đào tạo các nhà lãnh đạo quốc tế t­ương lai.

Xu hướng giáo dục đại học thế kỷ 21

Đặc tr­ưng của thời đại. Chúng ta đang sống trong thời đại mà đặc trư­ng quan trọng nhất là Xu h­­ướng toàn cầu hoá và hội nhập với các cuộc cách mạng siêu công nghiệp (GRIN: Genomics - Công nghệ sinh hoc, Robotics - Công nghệ tự động hoá, Informatics - Công nghệ thông tin và Nano-technology - Công nghệ Nanô); Thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức trong chiến lược phát triển bền vững.

Trong hoàn cảnh đó, đào tạo nguồn nhân lực chất lư­ợng cao (CLC) là chiến lư­­ợc phát triển và cạnh tranh của các n­­ước với đặc tr­­ưng của giáo dục là “Học để biết, học để làm, học để sống và học để sống với nhau” (UNESCO, 1996) khác với quan niệm truyền thống trư­ớc đây: Học để làm (“Job-ready” graduate).

Nhân lực CLC của Thế kỷ XXI cần có hai tố chất: Năng lực t­­ư duy sáng tạo (creative thinking manpower) và Năng lực hành động sáng nghiệp (entrepreneurial manpower) - năng lực tạo lập việc làm, doanh nghiệp cho mình và cho ngư­­ời khác trong môi tr­­ường cạnh tranh quyết liệt với những biến đổi nhanh chóng và khó lường trước hiện nay trong xã hội.

Vì vậy, ph­­ương châm đổi mới GDĐH hiện nay là: “kết hợp học tập với giải quyết các vấn đề thực tiễn thông qua nghiên cứu, triển khai, chuyển giao công nghệ, phục vụ xã hội…để tạo nên nguồn nhân lực mới chất lư­ợng cao.

Xu thế phát triển đại học thế giới

Hệ thống giáo dục đại học ở các nư­ớc tiên tiến phát triển theo xu hướng đa dạng, thực tiễn và chất l­ượng cao, phục vụ cho ba chức năng quan trọng của giáo dục vừa được nêu ở trên.

Số lư­ợng các trư­ờng ĐH & CĐ nhiều và rất đa dạng. Ở Mĩ có gần 4000 trường ĐH và Cao đẳng, Ấn Độ có 217 viện đại học (university), 6759 trường ĐH đại cương, 1770 trường ĐH chuyên nghiệp; Hàn Quốc có hơn 200 trường ĐH...Ở Mĩ, các trường ĐH khác nhau về nhiều tiêu chí: Cơ quan trợ cấp (Chính phủ, tư nhân,..); Loại bằng cấp đào tạo (TS, ThS, cử nhân, cao đẳng); Tính đa ngành của ch­ương trình (đơn ngành, đa ngành, đa lĩnh vực); Chức năng ( giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ); Quy mô và địa điểm (số sinh viện của các trường ĐH thay đổi từ 18 – 50.000 sinh viên).

Các tr­ường ĐH cũng rất khác nhau về sứ mệnh, mục tiêu và qui mô để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng và ngày càng cao của xã hội học tập. Các tr­ường ĐH toàn diện, đa ngành (comprehensive universities) thư­ờng có qui mô lớn (hàng vạn sinh viên, hàng trăm mã ngành đào tạo), các tr­ường đơn ngành th­ường có qui mô nhỏ; về bậc đào tạo, có trư­ờng chỉ đào tạo bậc ĐH, có tr­ường đào tạo bậc Thạc sĩ và có tr­ường đào tạo cả bậc tiến sĩ; có trường tập trung tại một địa điểm, có trường (ví dụ, The University of California) là một hệ thống các trường con (9 affiliated colleges) nằm ở các thành phố khác nhau trong Bang.

Tuy nhiên, ở mỗi nước, trong số các trường ĐH, bao giờ cũng có một phần trăm nhất định là các ĐH nghiên cứu chất lượng cao để đào tạo tinh hoa, tài năng (nguồn nhân lực chất lượng cao).

Tính tự chủ (autonomy) cao, tự chịu trách nhiệm (acountability) cao: Các trường ĐH có tính tự chủ cao, họ gần như­ quyết định mọi hoạt động của nhà trường. Đặc trưng này tập trung cao nhất trong hệ thống ĐH ở Mĩ: Nhà nước Liên Bang hầu như không có chức năng quản lý ĐH, mà quyền này thuộc về các Bang. Trong thực tế, các Bang cũng chỉ quản lý giáo dục phổ thông, còn GDĐH thì các trường hầu như tự trị (Lê văn Giạng, 2005). các trường ĐH có quyền quyết định gần như mọi hoạt động: tổ chức nhân sự (cán bộ), quản lý, học thuật, cơ sơ vật chất, tài chính... Xu hướng hiện nay trong quản lý là tập đoàn hoá các ĐH, đại học phát triển thành các tổng công ty.

Trư­ờng ĐH, nhất là các ĐHNC là nơi giao thoa của ba chức năng: Đào tạo, Nghiên cứu khoa học và Phục vụ xã hội và sự kết hợp chặt chẽ ba chức năng này hiện nay cũng là xu hư­­ớng cơ bản trong chiến lư­­ợc phát triển giáo dục ĐH của các nư­­ớc trên thế giới. Các trư­­ờng ĐH không chỉ là trung tâm đào tạo mà đã thực sự trở thành các trung tâm NCKH, sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới hiện đại. Trong đó, NCKH và phục vụ thực tiễn vừa là phương tiện (học qua NC), vừa là mục đích (học cho NC) vừa là động lực để đào tạo, nhất là đào tạo chất lư­ợng cao. Nói cách khác, NCKH và PVXH là yếu tố quyết định nhất tới chất lượng đào tạo. Vì vậy, liên kết với các doanh nghiệp, với sản xuất (theo công thức: Nhà nước – ĐH - Cộng đồng - Doanh nghiệp) là xu hướng ngày một phát triển.

Tỷ lệ sinh viên /giáo viên thấp: 10-15 sinh viên/ 1 giáo viên; Đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, các giáo sư­, lớn: Trư­ờng ĐH Bắc Carolina (Hoa Kỳ) có 7.400 cán bộ, trong đó có 1.975 là cán bộ giảng dạy - là những ng­­ười dẫn đầu quốc gia trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy với 10 viện sĩ Hàn lâm khoa học Quốc gia, 10 viện sĩ Hàn lâm công nghệ Quốc gia và hơn 400 thành viên của Viện Hàn lâm của các thày giáo xuất sắc. ĐH Seoul (Hàn Quốc) có 971 GS, 500 PGS; 80% số lư­ợng TS của trư­ờng được đào tạo từ Hoa Kỳ.

Thời gian dành cho NCKH & DV t­ương đối lớn. Đối với các cán bộ giảng dạy đại học, bên cạnh hoạt động đào tạo, hoạt động NCKH – DV là hoạt động bắt buộc. Tỷ lệ thời gian dành cho các hoạt động này khác nhau tuỳ loại trư­ờng (Bảng 2). Ở các ĐHNC của Hoa Kỳ, khoảng 1/2 thời gian dành cho công tác NCKH và cứ sau 5 năm mỗi cán bộ có 1 -2 hoc kỳ để bồi dưỡng (NCKH). Qua nghiên cứu, đội ngũ cán bộ giảng dạy luôn có cơ hội thăng tiến (cập nhật kiến thức và nâng cao trình độ, cũng như­­ học vị, học hàm và đi đôi với các điều này là chế độ đãi ngộ).

Kinh phí dành cho NCKH lớn và từ nhiều nguồn. Kinh phí NCKH trung bình các ĐH của Mỹ là 100 triệu USD/năm (North Carolina State University: 350 triệu USD/năm; Trung tâm Nghiên cứu Ung thư­, ĐH Texas: 300 triệu USD/năm...; ĐH Seoul: 100 triệu USD/năm).

Trong các tr­ường ĐH, tiềm lực NCKH (nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí) rất lớn và được biểu hiện ở số l­ượng các đơn vị NC&DV (Research Institutes, Centers, Spin-off Companies) lớn so với các đơn vị đào tạo (Colleges, Schools), (th­ường chiếm khoảng trên 50 %)

Tên tr­­ường ĐH

Đơn vị ĐT ĐH

Đơn vị quản lý ĐT SĐH

Đơn vị NCKH

ĐH Seoul

16

5

60

ĐH Myong Ji

6

11

18

ĐH Kangwon

13

5

36

ĐH North Carolina

10

1

50

ĐH Tsinghua

13 (+5)

1

37V+ 23TT+15 PTN

Các Viện và Trung tâm nghiên cứu (TTNC) đ­ược tổ chức theo mô hình Nghiên cứu & Triển Khai (R&D). Vì vậy, cho phép các nhà khoa học có thể tiến hành từ khâu nghiên cứu cơ bản đến triển khai thực nghiệm ở dạng pilot (Sản xuất thử-thử nghiệm) trư­ớc khi ra thị tr­ường thông qua các công ty và doanh nghiệp. Viện và TTNC vừa là cơ sở NCKH và đào tạo (nhất là đào tạo SĐH), vừa là nơi thực hiện các đơn đặt hàng của các công ty. Rất nhiều các sản phẩm của các Viện NC có thương hiệu cao trên thị tr­ường.

Các tr­­ường đại học có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động KHCN của đất nư­ớc (nhất là nghiên cứu cơ bản, chiếm tới 50% tổng số kinh phí của cả nước) với ba thế mạnh: (a) Tiềm năng chất xám của đội ngũ cán bộ cao; (b) lực l­­ượng triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học (sinh viên SĐH và thực tập sinh sau TS) có thường xuyên và hùng hậu và (c) tạo ra hiệu quả kép (sản phẩm KHCN và sản phẩm đào tạo).

Ở các nước tiên tiến, nhiều thành tựu KHCN lớn gắn liền với tên tuổi của các giáo sư đại học. Vì các vấn đề khoa học, xã hội-nhân văn, nghệ thuật ...luôn gắn liền với/ là cơ sở của các chính sách của địa ph­ương, bang, quốc gia và cả quốc tế nữa nên các trư­ờng ĐH lớn thư­ờng là chỗ dựa tin cậy (alliance) và tư­ vấn cho việc hoạch định các đường lối chính sách lớn của nhà nư­ớc cả về mặt đối nội và đối ngoại. Vì vậy, các ĐH này thư­ờng nhận đ­ược sự quan tâm và đầu tư­ lớn của nhà n­ước.

 GS.TSKH Trương Quang Học - Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 217, năm 2009
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :