Tin tức chung
Trang chủ   >  Tin tức  >   Tin tức chung  >  
[+Video] Tập thể nữ đạt giải Kovalevskaia 2018: Say mê khoa học, tích cực ươm mầm thế hệ trẻ
“Hãy theo đuổi đam mê và thành công sẽ theo đuổi bạn” là một câu nói đã và đang truyền nguồn cảm hứng cho hàng triệu người trẻ trên toàn thế giới. Có những người dành cả thanh xuân để mải miết đuổi theo những cơ hội, những lối rẽ mà vẫn không tìm thấy con đường của mình. Nhưng cũng có những người sớm tìm ra và dung dưỡng đam mê riêng, để một ngày nhận lại trái ngọt. Đó là câu chuyện của tập thể 17 nhà khoa học nữ của Bộ môn Công nghệ môi trường, Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN mà Cổng thông tin điện tử ĐHQGHN xin gửi tới quý độc giả ngay sau đây.

Tháng 3 hàng năm luôn là thời điểm để tôn vinh những người phụ nữ trên toàn thế giới. Năm nay, tháng 3 sẽ là một tháng đặc biệt đối với các nhà khoa học nữ của Bộ môn Công nghệ môi trường, Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN khi họ sẽ được vinh danh với Giải thưởng cao quý Kovalevskaia dành cho những tập thể, cá nhân nhà khoa học nữ xuất sắc, với Cụm công trình đào tạo, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng về “Công nghệ xử lý, tận dụng chất thải - Phân tích, đánh giá chất lượng môi trường”.

Tập thể nữ cán bộ của Bộ môn Công nghệ Môi trường, Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN

Say mê khoa học, tạo ra các sản phẩm hữu ích cho đời sống xã hội

Bộ môn Công nghệ môi trường, Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN, thành lập năm 1995. Từ 4 cán bộ ban đầu, đến nay, bộ môn đã có 13 cán bộ, trong đó 9 người là nữ giới, có trình độ từ Thạc sỹ trở lên, được đào tạo chính quy, bài bản từ các nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Úc, Đức, Nhật, Bỉ….

Cụm công trình mà tập thể cán bộ nữ của bộ môn đăng ký để nhận giải Kovalevskaia năm 2018 tập trung vào hai hướng nghiên cứu chính là Công nghệ kỹ thuật về xử lý và tận dụng chất thải; và Phân tích đánh giá chất lượng môi trường. Với hai hướng này, 10 năm trở lại đây, các nhà khoa học nữ của Bộ môn đã chủ trì 33 đề tài và tham gia 65 đề tài nghiên cứu khoa học ở tất cả các cấp, từ cấp ĐHQGHN đến đề tài hợp tác quốc tế. Cũng trong khoảng thời gian này, 17 nữ cán bộ của Bộ môn đã đóng góp 24 sách/giáo trình trong nước; 03 sách quốc tế; 30 Bài báo công bố trên các Tạp chí khoa học quốc tế bao gồm 17 bài thuộc hệ thống ISI/SCOPUS, 114 Bài báo trên các Tạp chí khoa học uy tín trong nước,….Đặc biệt, một số nữ cán bộ còn được mời phản biện cho các tạp chí khoa học chuyên ngành, các hội thảo trong và ngoài nước.

Phòng thí nghiệm Bộ môn Công nghệ Môi trường, Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN

Tại Việt Nam hiện nay, rác thải ngày một nhiều và đa dạng, quỹ đất để chôn lấp ngày một thu hẹp. Chính vì vậy, định hướng phát triển của công nghệ môi trường nói riêng và công nghệ nói chung không chỉ dừng lại ở việc xử lý chất ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn xả thải ra môi trường mà còn phải nghiên cứu đưa ra các công nghệ để quay vòng, tái sử dụng, tận dụng, thu hồi và biến chất thải thành các sản phẩm, tài nguyên hữu ích. Những năm qua, các nhà khoa học nữ của Bộ môn Công nghệ Môi trường, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã tích cực đóng góp các sản phẩm và giải pháp hữu ích để tận dụng chất thải từ các nguồn thải khác nhau. Một số đề tài tiêu biểu có thể kể đến như: Tận dụng bã giấy làm giá thể trồng nấm hay tận dụng bùn thải mạ trong sản xuất men màu gốm sứ (được giải thưởng Ngày sáng tạo Việt Nam về Môi trường của Ngân hàng Thế giới năm 2005) do PGS.TS. Nguyễn Thị Hà chủ trì, ThS Trần Thị Phương tham gia. PGS.TS Nguyễn Thị Hà cũng đang là chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước (theo Nghị định thư với Nhật Bản) về “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mô hình hóa trong công nghệ xử lý yếm khí nước thải giàu hữu cơ vào thực tiễn Việt Nam” (2017-2020). 8 cán bộ nữ của bộ môn cũng đang tham gia đề tài cấp nhà nước về “Nghiên cứu xây dựng mô hình công nghệ khả thi quy mô pilot để xử lý bùn thải công nghiệp giàu kim loại nặng theo hướng tận thu tài nguyên, tiết kiệm năng lượng”… ngoài ra, còn rất nhiều đề tài đã và đang được triển khai, đem lại những hiệu quả thiết thực đối với cuộc sống.

Tận dụng bùn thải mạ trong sản xuất men màu gốm sứ (Hình ảnh do Bộ môn cung cấp)

Hướng nghiên cứu về phân tích đánh giá chất lượng môi trường cũng rất được chú trọng bởi tính ứng dụng cao. Hiện nay, các công nghệ phân tích, công nghệ xử lý chất thải,… đều cần có các phương pháp để phân tích, đánh giá để thấy được hiệu quả của các giải pháp công nghệ, hay đánh giá các đặc tính của các vật liệu và sản phẩm được tạo ra từ các nguồn thải khác nhau. Những công trình nổi bật của hướng nghiên cứu này là đề tài nghiên cứu đã được Giải thưởng của Ngân hàng Thế giới năm 2005 của PGS.TS. Nguyễn Thị Hà và ThS Trần Thị Phương, cùng với đề tài Nghiên cứu sản xuất “Bộ kit thử và phương pháp xác định nhanh amoni trong các nguồn nước cấp cho sinh hoạt và ăn uống” do PGS.TS Đồng Kim Loan (chủ trì) và PGS. Trần Thị Hồng (thành viên) thực hiện. Sản phẩm của đề tài được Cục Sở hữu Trí tuệ, Bộ Khoa học & Công nghệ cấp Bằng Độc quyền sáng chế năm 2015.

Bộ kit thử và phương pháp xác định nhanh amoni trong các nguồn nước cấp cho sinh hoạt và ăn uống (Hình ảnh do Bộ môn cung cấp)

Trong thời gian tới, các nhà khoa học nữ sẽ cùng với bộ môn tiếp tục phát triển hai hướng nghiên cứu trên và cùng với Khoa Môi trường đẩy mạnh hướng nghiên cứu về độc học môi trường, độc học thực phẩm nhằm đánh giá các tác động, ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường, chất lượng thực phẩm,… đối với sức khỏe con người và hệ sinh thái. Một số cán bộ nữ của bộ môn đang là thành viên chính tham gia đề tài hợp tác quốc tế với Đại học Tokyo Nhật Bản về “Chương trình Đào tạo phân tích hóa học tại chỗ” nhằm tăng cường nguồn lực cho đánh giá chất lượng môi trường và an toàn thực phẩm.

Tích cực truyền lửa đam mê khoa học, ươm mầm thế hệ trẻ

Khoa Môi trường, Trường ĐH KHTN là đơn vị đầu tiên của cả nước đào tạo về môi trường. Bộ môn Công nghệ môi trường đã và đang cùng với Khoa tham gia tham gia, hỗ trợ các đơn vị trường/viện khác trong xây dựng chương trình đào tạo chuyên ngành về Môi trường nhằm góp phần làm lớn mạnh lĩnh vực này trên cả nước, đóng góp nguồn nhân lực trình độ cao cho Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường. Cán bộ nữ của bộ môn đã đóng góp hiệu quả vào tiến trình này, là lực lượng nòng cốt tham gia các chương trình giảng dạy của Khoa. Đặc biệt, một số giảng viên còn tham gia tích cực xây dựng chương trình đào tạo quốc tế bậc đại học và cao học. Trong 5 năm gần đây, các cán bộ nữ đã hướng dẫn thành công 05 tiến sĩ cùng hàng trăm thạc sĩ và cử nhân.

Gần đây, chương trình Công nghệ kỹ thuật môi trường do Bộ môn đảm nhiệm đã được kiểm định theo tiêu chuẩn AUN – QA của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á. Bộ tiêu chuẩn này đòi hỏi cao về ngoại ngữ và yếu tố thực tiễn trong việc nghiên cứu và đào tạo, cũng như tích hợp các chương trình thực hành, thực tập cho sinh viên trong chương trình giảng dạy.

Trong giảng dạy các cán bộ nữ luôn tích cực đổi mới phương pháp, tạo điều kiện và giúp sinh viên tăng cường tính tự chủ, sáng tạo. Giảng viên Nguyễn Minh Phương thuộc bộ môn chia sẻ: “Với đặc thù giới thì tâm lý của phái nữ sẽ giúp các cô dễ thông cảm và hiểu tâm lý của người khác và đặc biệt là các bạn sinh viên rất trẻ lại còn năng động. Trước đây mình cũng từng là cựu sinh viên ngành Công nghệ môi trường, sau khi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ở Đức được trở lại làm giảng viên, mình không thấy có khoảng cách quá lớn với các em. Khi đứng trên bục giảng, mình cảm thấy vừa là giảng viên, vừa là người chị lớn để có thể hướng dẫn các em sinh viên có thể có kết quả học tập tốt hơn”

Những tâm tư còn để ngỏ

Cống hiến hết mình cho hoạt động nghiên cứu khoa học và truyền thụ kiến thức cho thế hệ trẻ nhưng vẫn phải đảm bảo chu toàn thiên chức của người phụ nữ trong gia đình, các nữ cán bộ trong bộ môn thừa nhận đôi lúc cũng khó có thể đảm bảo cân bằng. Mặc dù vậy, với sự phát triển của xã hội và lối sống ngày càng hiện đại, họ đã quen với việc sắp xếp khoa học các công việc để đảm bảo hiệu quả công việc và hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, đằng sau sự trọn vẹn này là những hy sinh thầm lặng về sở thích, niềm vui cá nhân của những nhà khoa học nữ.

Khó khăn chưa bao giờ hết, nhưng các nữ cán bộ chưa từng nghĩ đến hai từ “bỏ cuộc”. Các nhà khoa học luôn quan niệm làm tốt, làm hết lòng công việc của mình, thì không chỉ giải thưởng mà các thành quả khác cũng sẽ đến.

Gửi một lời khuyên đến thế hệ trẻ theo đuổi con đường làm khoa học, PGS.TS. Nguyễn Thị Hà, Trưởng bộ môn Công nghệ môi trường tin tưởng rằng “nếu bạn đam mê với việc tìm ra cái mới, phát hiện những thứ giúp ích được cho xã hội, thì các bạn cứ bắt đầu. Sẽ không có chuyện ngày một, ngày hai mà các bạn trở thành một ai đó trong cuộc đời, nhưng cứ từng bước, từng bước, với sự dìu dắt của những người đi trước rồi sẽ đạt được thành quả mà mình mong đợi”

Làm vì đam mê chứ không vì giải thưởng, nhưng rõ ràng, đam mê và nỗ lực suốt nhiều năm của các nữ khoa học gia đã được đền đáp xứng đáng bằng giải thưởng cao quý Kovalevskaia năm 2018. Trước thành quả này, các nữ cán bộ cũng không quên tri ân gia đình và lãnh đạo ĐHQGHN, lãnh đạo Trường ĐH KHTN và Khoa Môi trường cùng các đồng nghiệp nam trong bộ môn đã luôn tạo điều kiện và hỗ trợ để họ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Giải thưởng Kovalevskaia là giải thưởng danh giá thường niên dành tặng cho những nhà khoa học nữ xuất sắc, nhằm tôn vinh những tập thể, cá nhân là các nữ khoa học có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực tiễn cuộc sống, đem lại nhiều lợi ích trên các lĩnh vực - kinh tế, xã hội và văn hóa. Giải thưởng mang tên nhà nữ toán học gốc Nga, Kovalevskaya (1850 - 1891).

Quỹ Sophia Kovalevskaia được thành lập do sáng kiến và sự đóng góp về tài chính của Bà GS.TS Ann Koblitz - người Mỹ và chồng bà là Ông GS.TS Neal Koblitz. Bà đã từng sang Liên Xô học tập, viết luận án tiến sĩ về nhà nữ toán học Nga Kovalevskaia. Luận án của Bà đã được đánh giá cao và được in thành sách. Bà đã quyết định dùng số tiền nhuận bút của cuốn sách này và vận động thêm sự ủng hộ của một số nhà khoa học ở Mỹ để lập ra Quỹ Sophia Kovalevskaia. Mục đích của Quỹ là động viên, khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học của phụ nữ ở những nước đang phát triển dưới hình thức trao Giải thưởng Kovalevskaia cho các nhà khoa học nữ xuất sắc thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên.

Năm 1985, Giải thưởng Kovalevskaia bắt đầu được biết đến ở Việt Nam. Giải thưởng Kovalevskaia trở thành niềm tự hào, niềm tin vững chắc, tạo động lực cho các thế hệ nhà khoa học nữ Việt Nam tiếp tục cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho đất nước.

Nguồn: Bộ Khoa học & Công nghệ

 

>>> Các tin liên quan:

Hình ảnh cho giới khoa học nữ Việt Nam

Lễ trao Giải thưởng Kovalevskaia năm 2007

  

 Thùy Trang - Ảnh: Ngọc Tùng & Lan Anh - VNU Media
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   | 328   | 329   | 330   | 331   | 332   | 333   | 334   | 335   | 336   | 337   | 338   | 339   | 340   | 341   | 342   | 343   | 344   | 345   | 346   | 347   | 348   | 349   | 350   | 351   | 352   | 353   | 354   | 355   | 356   | 357   | 358   | 359   | 360   | 361   | 362   | 363   | 364   | 365   | 366   | 367   | 368   | 369   | 370   | 371   | 372   | 373   | 374   | 375   | 376   | 377   | 378   | 379   | 380   | 381   | 382   | 383   | 384   | 385   | 386   | 387   | 388   | 389   | 390   | 391   | 392   | 393   | 394   | 395   | 396   | 397   | 398   | 399   | 400   | 401   | 402   | 403   | 404   | 405   | 406   | 407   | 408   | 409   |