1. Họ và tên nghiên cứu sinh: Phạm Thu Hà
2. Giới tính: Nữ
3. Ngày sinh: 08/ 03/1982
4. Nơi sinh: Mai Sơn, Sơn La
5. Quyết định công nhận nghiên cứu sinh số: 3202/QĐ-SĐH, ngày 08 tháng 11 năm 2010 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Các thay đổi trong quá trình đào tạo: Quyết định điều chỉnh tên đề tài luận án số 923a/QĐ-SHĐ ngày 06/07/2014 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Tên đề tài luận án: Vai trò của nam giới dân tộc H’Mông vùng Tây Bắc trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản (Nghiên cứu trường hợp xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).
8. Chuyên ngành: Xã hội học
9. Mã số: 62 31 30 01
10. Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Quyết
11. Tóm tắt các kết quả mới của luận án:
1. Kể từ sau Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) năm 1994, vấn đề DS và chăm sóc SKSS đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực chăm sóc SKSS, nhất là chăm sóc SKSS cho nhóm dân tộc thiểu số. Một điều đáng chú ý là các nghiên cứu có đối tượng đích là nam giới rất ít, và chỉ khu trú vào vấn đề nhạy cảm như đồng tính nam, tình dục hay vô sinh. Tuy nhiên sự tham gia của nam giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản là một trong những chiến lược quan trọng của ICPD tại Cairo, do vậy cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa tìm hiểu vai trò của nam giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản.
2. Nam giới dân tộc H’mông đã phần nào nhận thấy vai trò của bản thân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai. Thể hiện ở tỷ lệ nam giới biết đến các vấn đề liên quan đến nội dung kế hoạch hoá gia đình như số con cho phép, độ tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên theo quy định của Nhà nước và các biện pháp tránh thai. Đối với nội dung chăm sóc sức khoẻ bà mẹ cũng có hơn nửa số nam giới cho rằng họ biết rõ về việc phụ nữ có thai thì phải được thăm khám thai ở cơ sở y tế, được nghỉ ngơi và bồi dưỡng đúng cách. Mặc dù đây chỉ là nhận định có tính chất chủ quan của nam giới, sự hiểu biết của họ mới chỉ là những nhận thức ban đầu, biết là bà mẹ mang thai thì phải đi khám thai, nhưng đi khám bao nhiêu lần và khám vào những thời điểm nào thì hầu hết đều không nắm được. Tuy nhiên, những hiểu biết ban đầu đó cũng có thể cho thấy nam giới đã có sự quan tâm đến việc thực hiện KHHGĐ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai.
3. Sự thực hiện vai trò của nam giới dân tộc H’mông trong kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai còn nhiều hạn chế. Cụ thể, nam giới là người quyết định số con trong gia đình, tại địa bàn nghiên cứu, không có gia đình nào dừng lại ở con số 2 con, những gia đình đang có 2 con rơi vào nhóm trẻ, họ vẫn sẽ sinh thêm vì trong cộng đồng dân tộc H’mông, ít con là có 4, 5 người con. Hầu hết nam giới được hỏi đều kết hôn khi mới 17, 18 tuổi. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai để chia sẻ gánh nặng với người phụ nữ mới dừng ở con số trên 10%. Đưa vợ đi khám thai chủ yếu để biết giới tính thai nhi chứ không phải họ quan tâm đến sức khoẻ bà mẹ và sự phát triển của bào thai. Phụ nữ H’mông vẫn tham gia lao động bình thường cho đến lúc đẻ, thậm chí hiện nay vẫn còn những trường hợp đẻ rơi ngoài nương. Phụ nữ có cũng nhiều mong muốn thầm kín nhưng bởi họ không dám nói ra những mong muốn, những yêu cầu của bản thân với người chồng của họ nên khiến chúng ta nghĩ rằng phụ nữ H’mông không quan tâm đến bất kỳ điều gì ngoài việc cặm cụi làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ. Thực tế cho thấy phụ nữ không dám yêu cầu, đòi hỏi gì vì sợ cộng đồng chê cười, lên án.
4. Rào cản cản trở vai trò của nam giới trong thực hiện KHHGĐ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ là các phong tục tập quán như quan niệm về hôn nhân và gia đình; quan niệm về số con và giá trị của người con trai; quan niệm sinh đẻ là việc của phụ nữ cùng những tập quán kiêng kị trong sinh đẻ. Bên cạnh đó là sự hạn chế về trình độ và công tác truyền thông còn chưa sâu rộng. Một rào cản cũng được xem xét đó là về mặt địa lý, xa trung tâm xã, trạm y tế và bệnh viện huyện.
Tóm lại: Thực trạng trên cho thấy nam giới chưa làm tốt vai trò của họ trong việc thực hiện KHHGĐ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai. Hiện nay, xã hội mong đợi nam giới có những hành vi thiết thực để chia sẻ gánh nặng với người phụ nữ trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình, trong quá trình phụ nữ mang thai và sinh con. Tuy nhiên, quá trình điều tra cho thấy, nam giới tại địa bàn nghiên cứu chưa thực hiện được vai trò tương ứng với địa vị của họ. Rào cản lớn nhất là những tập quán truyền thống đã trở thành những khuôn mẫu bất di bất dịch khiến cho nhiều nam giới hiện nay dù ít nhiều biết đến những yêu cầu thực hiện KHHGD và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ nhưng hành động thì vẫn theo thói quen truyền thống. Bức tranh vai trò chăm sóc sức khoẻ sinh sản của nam giới đã cho thấy từ lời nói, suy nghĩ đến hành động còn là một khoảng cách rất xa. Có lẽ cần có thêm nhiều thời gian và sự quyết tâm hơn nữa thì tình hình trên mới có thể được cải thiện.
12. Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Là tài liệu tham khảo tốt cho việc hoạch định và quản lý về dân số và CSSKSS, công tác y tế cộng đồng và các quan hệ gia đình, các dân tộc thiểu số; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác giảng dạy, nghiên cứu về lĩnh vực này ở nước ta hiện nay.
13. Những hướng nghiên cứu tiếp theo: Phân công vai giới trong các gia đình người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc; Vấn đề nữ cán bộ ở Tây Bắc.
14. Các công trình đã công bố liên quan đến luận án:
- Phạm Thu Hà (2012), “Vấn đề chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai người dân tộc H’mông xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về công tác xã hội và an sinh xã hội, Nxb Đại học Quốc gia, tr. 638-647.
- Phạm Thu Hà (2013), “Sự tham gia của người chồng trong chăm sóc sức khoẻ người vợ mang thai ở dân tộc H’mông”, Tạp chí Dân tộc học (4), tr. 34-43.
- Phạm Thu Hà (2014), “Nhận thức của nam giới người H’Mông về yêu cầu thăm khám thai định kỳ cho bà mẹ mang thai”, Kỷ yếu hội nghị Khoa học Cán bộ trẻ và học viên sau đại học năm học 2013 - 2014, Nxb Đại học Quốc gia, tr. 813-822.
|