![]() |
| GS.TS Phạm Hồng Tung |
Thưa GS.TS Phạm Hồng Tung! Với vai trò vừa là nhà sử học/nghiên cứu và vừa là một người có gốc gác nông đã mang đến cho ông cảm xúc đặc biệt thế nào mỗi khi nhắc đến cụm từ "người nông dân"?
GS.TS Phạm Hồng Tung: Phải nói rằng, tất cả những người Việt Nam yêu mến đất nước Việt Nam luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt với văn minh nông nghiệp lúa nước và người nông dân. Đó là tình cảm hết sức tự nhiên, chính đáng.
Ngay cả những người xuất thân ở thành thị, yêu mến Thành phố Hà Nội cũng rất quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn; bởi vì ai cũng có một chốn quê để về. Hầu hết, những người đang sống ở Hà Nội và những đô thị khác đều xuất thân từ nông thôn. Nếu chúng ta để ý, mỗi dịp Tết đến Xuân về, Hà Nội tự nhiên như trống vắng, như trở lại một trạng thái rất tĩnh lặng, bởi vì phần lớn dân cư về quê.
Khái niệm về quê trong những dịp lễ, giỗ, ngày Tết là một khái niệm thiêng liêng đối với những người sống ở thành phố. Việc quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn như là một hình thức trả nợ nguồn của tất cả người con đất Việt, dù ở trong nước hay ngoài nước, dù ở nông thôn hay thành thị.
Cá nhân tôi vốn xuất thân từ một gia đình nông dân, gắn bó với ruộng vườn, cây lúa, củ khoai từ rất sớm. Vì vậy, đi đâu tôi cũng nhớ gốc gác mình là nông dân. Chính những hạt lúa, củ khoai quê hương đã nuôi dưỡng mình có những ước mơ và bước trưởng thành đầu tiên.
Mỗi khi cảm thấy chông chênh, vấp ngã về tình cảm hay công việc, tôi đều tìm thấy sự động viên, động lực từ nguồn gốc nông dân của mình. Người nông dân chân lấm, tay bùn, nắng mưa dãi dầu, khó khăn bao nhiêu người ta cũng chăm sóc để cho cây lúa, củ khoai lớn lên được. Vậy nên tôi không cho phép mình đầu hàng hay ngại khó, ngại khổ trước bất kỳ thử thách nào.
Vì sao vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp Việt Nam luôn được ông đặt mối quan tâm lên hàng đầu?
Trước hết, vấn đề nông dân trong đời sống dân tộc luôn là một vấn đề quan trọng trong các nghiên cứu xã hội, lịch sử và văn hóa Việt Nam. Dù là người Việt hay người nước ngoài, khi nghiên cứu về Việt Nam đều phải quan tâm đến vấn đề nông dân. Bởi lẽ, nông dân không chỉ chiếm số đông mà trong suốt chiều dài lịch sử, họ là chủ nhân chính của lịch sử, văn hóa, chính trị và kinh tế đất nước.
Thứ hai, làng xã và cộng đồng nông thôn là hình thức cư trú, sinh sống và tham gia vào đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế của giới nông dân. Do đó, làng xã Việt Nam luôn giữ vai trò trung tâm và là đối tượng quan tâm hàng đầu của mọi nhà nghiên cứu. Có thể nói, làng xã đã trở thành chủ đề quan trọng nhất trong tất cả những nghiên cứu về Việt Nam ở trong nước và ngoài nước. Khi nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, chính trị và kinh tế Việt Nam, mối quan tâm hàng đầu bao giờ cũng phải đặt lên đối tượng nghiên cứu là nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Đó là những lý do hoàn toàn có tính chất học thuật, chuyên môn của các nhà nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có tôi.
Nguyên nhân khác có tính chất cá nhân, cảm xúc. Đây cũng là lý do quan trọng để tôi gắn bó với chủ đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp trong suốt chặng đường hoạt động chuyên môn của mình, không chỉ bằng lý trí mà bằng cả tình cảm. Tôi không chỉ nghiên cứu để đạt được những thành tựu chuyên môn, mà trước hết là để có ích cho cuộc sống, xã hội.
Mong muốn của tôi là làm sao đền đáp, trả được nợ nguồn, làm sao để nông dân, nông thôn, nông nghiệp mỗi ngày tốt hơn. Tôi nghĩ đây không chỉ là tình cảm, khát vọng của riêng mình, mà còn của rất nhiều người dân Việt Nam, của bạn bè, đồng nghiệp trong cộng đồng trí thức khi họ cũng luôn muốn cống hiến và thực hiện khát vọng đó.
Ông từng đề cập đến chân lý "mất nước nhưng không mất làng". Theo ông, điều gì trong bản chất của người nông dân là chỗ dựa vững chắc và an toàn nhất để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới và toàn cầu hóa hiện nay?
Lịch sử Việt Nam là một chuỗi bài học lớn về sự kiên cường của dân tộc khi nhiều lần phải đương đầu với giặc ngoại xâm hung hãn. Nếu chúng ta là một dân tộc đất không rộng, người không đông, nếu chúng ta cứ đem quân đội thường trực ra đọ sức với giặc ngoại xâm thì chắc chắn thất bại. Thực tế, những cuộc kháng chiến thất bại như cuộc kháng chiến của An Dương Vương, nhà Hồ thế kỷ 15, nhà Nguyễn thế kỷ 19… Bài học thất bại cho thấy, không thể nào đem sức lực quân đội thường trực, trần trụi hoàn toàn có tính chất kỹ trị ra đối phó với giặc ngoại xâm mà chúng ta phải đối phó bằng trí tuệ và tinh thần đoàn kết. Bài học trí tuệ đó là: Mất có thể mất thành, nhưng không bao giờ mất nước; mất nước nhưng không bao giờ mất làng. Không mất làng cho nên nước còn.
Cụ thể, khi giặc hung hãn tiến vào, chúng ta phải đem toàn dân ra đối phó. Đầu tiên, phải tìm cách ngăn chặn để giáng cho quân địch những đòn cảnh cáo, để chúng biết chúng đang đương đầu với một dân tộc anh hùng, một dân tộc dũng cảm. Nhưng sau đó, phải biết tổ chức kháng chiến một cách thông minh là không cứu thủ tại những thành trì mà rút về các làng mạc. Ở đó, nói như Vua Quang Trung: Để cho quân địch ngủ quên ở Thăng Long hay các thành phố khác một đêm rồi sẽ quét sạch chúng. Tức là rút lui về làng, dựa vào làng để tạo thành thế bao vây quân địch trong các tòa thành trống rỗng.
Khi quân địch bị rơi vào thế khủng hoảng về lương thực và hậu cần, lúc bấy giờ, chúng phải rút lui hoặc chúng phải đánh rộng ra xung quanh. Thời điểm đó, chúng sẽ rơi vào thiên la địa võng của đội quân chúng ta. Khi đã dựa chắc vào dân, dựa chắc vào làng thì chỗ nào cũng thành thiên la địa võng. Chúng ta có cơ hội tập trung lực lượng để tổ chức những cuộc quyết chiến chiến lược như trận Bạch Đằng, Đống Đa, Điện Biên Phủ để đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lăng của kẻ địch. Đó là quy luật và bài học giữ nước, chống ngoại xâm từ lịch sử cổ trung đại và lịch sử cận hiện tại.
Trong kỷ nguyên mới của toàn cầu hóa và cách mạng 4.0, bài học “rút về làng để giữ nước” được hiểu là dựa vào con người, nguồn nhân lực. Gần đây, khi chia sẻ với cộng đồng các nhà nghiên cứu Việt Nam học, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nói rằng: Nguồn lực quan trọng nhất của đất nước là hơn 100 triệu người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Nguồn lực con người này được định dạng giá trị bởi ba phương diện.
Phương diện thứ nhất là cấu trúc dân cư. Đó là đội ngũ con người với quy mô dân số lớn không phải nhiều các quốc gia trên thế giới có được. Tuy nhiên, chúng ta nhìn thấy trước xu hướng dân số đang già hóa nhanh, đòi hỏi phải khắc phục bằng nhiều biện pháp. Trong đó, có biện pháp mở rộng không gian để ai cũng có một nơi để về, ai cũng có một cái “home”, một gia đình của mình. Nếu cứ chật chội mãi ở những đô thị dày đặc người như thế này hẳn không có đô thị nào thành đô thị đáng sống.
![]() |
| Vùng đất Lãnh Ngọc thay đổi, ngày càng phát triển, kinh tế phát triển. Ảnh: T.H |
![]() |
Thứ hai, chúng ta dựa vào tài nguyên văn hóa Việt Nam của hơn 100 triệu người Việt Nam, trong đó “mã số” giá trị quan trọng nhất là tình yêu nước. Yêu nước không phải là một tình cảm chung chung mà yêu nước gắn với yêu gia đình, yêu tổ tiên, yêu làng mạc, yêu phố phường... Tình yêu nước phải cụ thể như vậy. Yêu nước, yêu làng, yêu gia đình phải làm cho gia đình hạnh phúc, thương yêu nhau bằng tình thương không gì thay thế được.
Khi đã yêu nước, yêu làng, yêu phố phường, chúng ta phải biết chăm lo từng cọng rác, xử lý từng khu vực ô nhiễm để tạo ra một môi trường xanh - sạch - đẹp. Yêu nước, yêu làng là phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân, chấp hành các quy định của pháp luật.
Như vậy, chúng ta sẽ có một tình yêu nước duy lý, đoàn kết và thương yêu nhau trên tầm cao mới này sẽ giúp chúng ta sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới.
Thứ ba, trí tuệ Việt Nam. Những di sản trí tuệ như truyền thống làng khoa bảng đáng tự hào, “trăm hay nghìn khéo” của bao làng nghề và tinh thần xử lý các vấn đề về thiên tai thông minh từ thời cha ông ta phải được thăng hoa trong thời đại cách mạng 4.0/ Người dân cần làm chủ AI (trí tuệ nhân tạo), làm chủ chuyển đổi số. Xưa nay cha ông chúng ta không ngồi yên chờ nước lụt đến mới đắp đê, không ngồi yên đến lúc cây lúa héo rồi mới ra tát nước ngoài đồng, mà đều phải chủ động. Tinh thần chủ động, niềm tin vào những giá trị nhân bản chính là điểm quyết thắng trong cuộc cách mạng công nghệ cao này. Đó là những tài sản chúng ta khai thác được ở góc nhìn mới từ văn minh làng xã, văn minh nông dân, nông nghiệp của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Trước thềm lễ trao Giải báo chí toàn quốc về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam lần thứ III - năm 2025 và Thi viết tìm hiểu truyền thống 95 năm Hội Nông dân Việt Nam sẽ diễn ra vào tối 5/12, ông đánh giá thế nào về giải thưởng này và có thông điệp nào ông muốn gửi đến những người nông dân?
Tôi nghĩ những giải thưởng này rất quan trọng và cần thiết, vì chúng có tính chất động viên lớn đối với cộng đồng dân tộc, truyền thông, xã hội và đối với cả bạn bè quốc tế để có một sự quan tâm thiết thực hơn với nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Trước hết là cảm thức biết ơn. Nếu không có cảm thức biết ơn sẽ mất hết. Chúng ta phải biết ơn những nông sản của bà con nông dân đã “một nắng hai sương” - dù chúng ta trả tiền để mua những sản phẩm đó. Phải hiểu rằng, dù có bao nhiêu tiền cũng không thể đủ đền đáp ơn mưa nắng dãi dầu của người nông dân. Chính cảm thức biết ơn sẽ là nền tảng để thay đổi chính sách cho người nông dân không phải mãi mãi là những người bị thiệt thòi, thua thiệt trong thế giới cạnh tranh cao này.
![]() |
Mong muốn của tôi là các nhà khoa học, nhà báo, giới văn nghệ sĩ cần phải có những tác phẩm đỉnh cao về đề tài nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Điều tôi kỳ vọng nhất là phải động viên nông dân tự viết về mình, tự nói về mình, tự nói ra khát vọng và ước mơ của mình.
Hãy giúp người nông dân nói tiếng nói của mình, giống như cách cố Tổng Bí thư Trường Chinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi còn sinh thời đã tự đi khảo sát, tự đi điều tra để viết cuốn sách Vấn đề dân cày là nền tảng cho Đảng, Nhà nước đưa ra những chính sách về nông dân, nông nghiệp, nông thôn đúng đắn và kịp thời trong Cách mạng tháng Tám và sau này.
Cuối cùng, thông điệp tôi muốn gửi tới các bạn thanh niên đang ở nông thôn rằng: Không ai mang cho các bạn tương lai, nhưng tương lai ở trong tay các bạn. Các bạn đang có quê hương mình, bạn đang có những điều kiện tốt nhất nên hãy tự tạo ra sinh kế mới cho mình. Đó chính là cách bạn tự chiếm lĩnh đỉnh cao trong thế giới công nghệ theo cách riêng của người nông dân Việt Nam.
Cảm ơn GS.TS Phạm Hồng Tung đã chia sẻ thông tin!



