1. Bối cảnh - Sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (gọi tắt là Giáo dục 4.0) nhằm đáp ứng những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). - Các xu thế phát triển GDĐH theo tinh thần đại học 4.0, đại học đổi mới, sáng tạo ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến ĐHQGHN: (i) Xu hướng chuyển đổi số trong giáo dục, sự phát triển vượt bậc của công nghệ đã thay đổi và gây ra sự chuyển đổi về phương pháp giảng dạy và thiết lập lại quá trình học tập; (ii) Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đòi hỏi giáo dục đại học các nước phải nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ hình thức, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo để nâng cao sức cạnh tranh, tạo cơ hội thu hút nguồn lực và nâng cao chất lượng đào tạo, đạt được những chuẩn mực chung về chất lượng giáo dục của quốc tế; (iii) Xu hướng giáo dục dưới tác động đa chiều từ dịch bệnh COVID-19 mở ra những cơ hội, những xu hướng giáo dục mở và linh hoạt hơn, cần có những thay đổi về chính sách đào tạo, đánh giá chất lượng đào tạo; bồi dưỡng kỹ năng cho giáo viên, giảng viên; thay đổi chương trình, mục tiêu đầu ra, phương thức giảng dạy đối với các môn học; người học cũng phải thay đổi cách thức tiếp thu kiến thức, chú trọng phát triển kỹ năng học/làm việc từ xa, thúc đẩy tư duy tự học, phát triển các nền tảng đào tạo trực tuyến. - Vai trò của giáo dục đào tạo và yêu cầu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các chiến lược, chính sách quốc gia và gia đình Việt Nam. Sự thay đổi về triết lý giáo dục và mô hình đào tạo, xu thế đào tạo kỹ năng đang dần thay thế xu thế đào tạo bằng cấp tại các khu vực giáo dục/lao động công và tư. Xuất hiện nhiều triết lý mới trong đào tạo kèm theo như cá thể hóa, giáo dục trải nghiệm, giáo dục kiến tạo, đánh giá quá trình; mô hình giáo dục STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics) trong các trường đại học với việc chú trọng các kiến thức liên quan đến khoa học, công nghệ, kỹ thuật và tính toán cũng dần được thay thế bởi STEMA (thêm yếu tố Arts - nghệ thuật, nhân văn) để đảm bảo tính cân bằng, toàn diện. - Xu hướng tự chủ đại học; chủ trương đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng giảm dần đầu tư NSNN, khuyến khích đầu tư XHH cho lĩnh vực sự nghiệp công. Mức độ cạnh tranh trong các khu vực giáo dục ngày càng tăng: Sự đầu tư lớn và sâu của các đại học tư thục gắn với doanh nghiệp có đầu vào lớn (về tài chính) và cam kết đầu ra mạnh (về việc làm) vừa là thách thức, vừa là yếu tố thúc đẩy sự phát triển đối với các trường đại học công lập. Hơn nữa, cơ chế linh hoạt trong tổ chức và hoạt động khiến các trường đại học tư thục hiện nay có sức hút lớn đối với các giảng viên và học viên tạo nên luồng di chuyển chất xám vào khu vực này. Ngoài ra, các hình thức tổ chức đại học “ảo”, “mềm” cũng đem lại nhiều sự cạnh tranh mới trong khu vực giáo dục hiện nay. - Xu thế KH&CN phát triển tập trung vào liên ngành, xuyên ngành, đa ngành và đề cao tính ứng dụng đòi hỏi phải có tiếp cận tổng hợp, không phải khu trú, chuyên biệt trong một lĩnh vực chuyên môn nào. Đào tạo liên ngành trong các trường đại học tại Việt Nam hiện nay là một xu thế mang tính thích ứng, hình thành các nhóm/mạng lưới/tổ chức nghiên cứu kết hợp giữa các ngành khoa học, các tổ chức khác nhau. Tính ứng dụng cũng được đề cao khi lấy thị trường, lấy doanh nghiệp làm trung tâm để triển khai các hoạt động nghiên cứu và đào tạo của các trường đại học, gắn kết giữa nghiên cứu và nhu cầu thị trường nhằm phát triển thị trường KH&CN, thúc đẩy hình thành nền kinh tế thị trường. Việc liên kết trong đào tạo với các doanh nghiệp là giúp tiếp cận nhanh hơn với thị trường lao động và hạn chế việc đào tạo lại. - Mục tiêu nhiệm kỳ Đại hội 2020-2025 “phát triển ĐHQGHN trở thành đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, có các sản phẩm đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Phấn đấu đến năm 2025 ở trong nhóm 100 đại học hàng đầu châu Á, nhóm 500 đại học hàng đầu thế giới; đến năm 2030 ở trong nhóm 300 đại học hàng đầu thế giới” đòi hỏi cần có các nguồn lực tương xứng. - Vai trò đặc biệt của ĐHQGHN trong hệ thống GDĐH: Lợi thế về mô hình tự chủ của ĐHQGHN không còn là thế mạnh; bối cảnh cạnh tranh của các đại học khác về quyền tự chủ, về chất lượng đội ngũ, về nguồn lực tài chính thì ĐHQGHN làm gì để giữ vai trò dẫn dắt, tiên phong trong hệ thống GDĐH Việt Nam. - ĐHQGHN được Chính phủ ưu tiên đầu tư cho Dự án Đầu tư xây dựng ĐHQGHN tại Hòa Lạc. Nhiệm kỳ 2020-2025, ĐHQGHN được ưu tiên bố trí vốn ODA để thực hiện Dự án “Phát triển các Đại học Quốc gia Việt Nam - Tiểu Dự án ĐHQGHN” vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) và Dự án “Đầu tư Xây dựng Trường Đại học Việt Nhật” sử dụng vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản. Tòa nhà điều hành ĐHQGHN và một số bộ phận sẽ vận hành hoạt động tại Hòa Lạc trong nhiệm kỳ tới. 2. Đánh giá thực trạng về tài chính của ĐHQGHN nhiệm kỳ 2015-2020 2.1. Thực trạng về cơ chế tài chính và hệ thống văn bản quản lý điều hành - ĐHQGHN thực hiện cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP, Nghị định 43/20025-MĐ-CP; và Các quy định của Luật GDĐH và Nghị định, Quy chế tổ chức hoạt động do Thủ tướng Chính phủ ban hành. - So sánh với các trường đại học khác, ĐHQGHN có quyền tự chủ cao hơn, thể hiện ở các điểm sau: + Được quyết định học phí các chương trình đào tạo chất lượng cao. + Được quyết định, ban hành quy định nội bộ phân bổ, điều tiết nguồn tài chính của ĐHQGHN (cả nguồn NSNN và nguồn thu sự nghiệp) thực hiện nhiệm vụ chung. - ĐHQGHN đã ban hành hệ thống các văn bản quản lý, điều hành đảm bảo công tác tài chính của ĐHQGHN minh bạch, chuẩn hóa: ban hành mới, sửa đổi, bổ sung quy định về Quản lý phát triển nguồn thu bổ sung ngân sách; phân bổ thanh toán môn chung, môn gần chung; quản lý thanh toán theo mô hình A + B; văn bản xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư trong ĐHQGHN. - Tỷ trọng đơn vị có khả năng tự đảm bảo chi thường xuyên thấp. Trong tổng số 34 đơn vị dự toán trực thuộc, có 03 đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi phí thường xuyên (Khoa Quốc tế, Khoa QTKD, Bệnh viện ); số đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên là 3 đơn vị; đơn vị NSNN đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên 01 đơn vị (Tạp chí Khoa học). 2.2. Thực trạng về các nguồn lực tài chính a) Các nguồn lực tài chính từ NSNN - Nguồn vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư tăng so với giai đoạn trước (trung bình tăng hơn so với năm 2014 khoảng 150%). Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 2015-2020, chi đầu tư phát triển còn ở mức thấp, mới đáp ứng dưới 50% nhu cầu. Tính đến hết kỳ trung hạn 2015-2020, vốn đã được cấp là 2.028 tỷ đồng (bao gồm 467 tỷ đồng vốn cấp cho Dự án Hòa Lạc giai đoạn 2016-2017 do Bộ Xây dựng làm chủ đầu tư; 500 tỷ đồng cấp bổ sung cho Dự án Hòa Lạc từ nguồn dự phòng chung). Nếu không tính nguồn bổ sung 500 tỷ, so với kế hoạch trung hạn Chính phủ giao là 1.802 tỷ đồng, vốn đã bố trí mới đạt khoảng 80% kế hoạch trung hạn được giao. Đặc biệt, vốn cho Dự án Hòa Lạc thấp, tính từ khi thực hiện dự án đến hết năm 2020, vốn đã cấp cho Dự án Hòa Lạc khoảng 2.621 tỷ đồng bằng 36% nhu cầu vốn thực hiện giai đoạn I của Dự án. Dự kiến trong nhiệm kỳ sắp tới, ĐHQGHN được Chính phủ ưu tiên bố trí vốn cho ĐHQGHN thực hiện ODA để thực hiện Dự án “Phát triển các Đại học Quốc gia Việt Nam - Tiểu Dự án ĐHQGHN” vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) và Dự án “Đầu tư Xây dựng Trường Đại học Việt Nhật” sử dụng vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản để đẩy nhanh tiến độ dự án, đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm, sớm di chuyển một số bộ phận lên cơ sở mới tại Hòa Lạc. - Nguồn vốn NSNN chi thường xuyên vẫn được Chính phủ ưu tiên đầu tư, duy trì ở mức ổn định, đáp ứng nhiệm vụ được giao, góp phần đạt được các thành tựu quan trọng về đào tạo của giai đoạn này như tiên phong đổi mới tuyển sinh theo phương thức ĐGNL; hoàn thành mở mới và điều chỉnh các chương trình đào tạo các ngành, lĩnh vực mới, liên ngành, đáp ứng nhu cầu xã hội; đảm bảo quy mô đào tạo tài năng, chất lượng cao, tiên tiến, chuẩn quốc tế 16% trên tổng quy mô chính quy; thực hiện kế hoạch đổi mới hoạt động giảng dạy toàn ĐHQGHN. Tuy nhiên, ngân sách cấp có xu hướng ngày càng giảm, khó có mức tăng đột biến. - Nguồn kinh phí cho hoạt động khoa học công nghệ từ NSNN có mức tăng cao so với giai đoạn trước, do được giao thực hiện các chương trình, nhiệm vụ KHCN lớn của quốc gia như Chương trình Tây Bắc, Nhiệm vụ Quốc chí. Năm 2019, năm cuối của nhiệm kỳ, tổng kinh phí NSNN sự nghiệp KHCN của ĐHQGHN có mức tăng khoảng 15% so với các năm trước (tăng trên 20% so với năm giữa nhiệm kỳ). Tuy nhiên, nguồn kinh phí dành cho hoạt động NCKH thường xuyên của ĐHQGHN không tăng. Việc hạn chế về nguồn lực tài chính cho đào tạo và NCKH dẫn tới không thể thực hiện toàn diện, hiệu quả các khâu đột phá về phát triển đội ngũ (các cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút cán bộ có trình độ cao); triển khai các yếu tố nâng cao chất lượng đào tạo thực hiện NQ 29 (Đề án Đào tạo Tiến sĩ chất lượng cao, Phát triển các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, Đổi mới phương thức thực tập, thực tế, đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên,); triển khai các yếu tố phát triển KH&CN theo định hướng Nghị quyết 20-NQ/TW, đầu tư cho các đơn vị phát huy thế mạnh về KHCB, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để phát triển các sản phẩm chủ lực, đầu tư gắn với nhóm nghiên cứu mạnh để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. b) Nguồn thu sự nghiệp và các nguồn khác - Nguồn thu sự nghiệp của ĐHQGHN duy trì xu hướng tăng ổn định hàng năm. Một số đơn vị có mức tăng thu tích cực: Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại Kinh tế, Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học KHXH&NV, Khoa Quốc tế, Khoa Y Dược, Bệnh viện. Tính đến cuối nhiệm kỳ 2015-2020, tổng nguồn thu sự nghiệp đạt trên 900 tỷ đồng; tăng mức khả năng tự cân đối của ĐHQGHN đạt trên 50% tổng chi thường xuyên. - Nguồn thu từ các chương trình đào tạo chất lượng cao tăng nhanh tỷ trọng trong tổng số thu học phí vào năm cuối của nhiệm kỳ 2015-2020. Đến năm 2019, nguồn thu này tăng lên dự kiến đạt gần 125 tỷ đồng; chiếm trên 20% tổng nguồn thu học phí của ĐHQGHN. Hiện nay, các chương trình CLC được triển khai ở hầu hết các đơn vị đào tạo, dự kiến nguồn thu này sẽ tiếp tục tăng đáp ứng lộ trình tăng tự chủ, NSNN chi thường xuyên ngày càng giảm dần; đến năm 2020, số thu các chương trình chất lượng cao dự kiến đạt trên 35% nguồn thu học phí của toàn ĐHQGHN. - Nguồn thu hoạt động khoa học, chuyển giao có mức tăng trong vài năm gần đây; thu từ các đề tài, dự án KHCN triển khai hoặc chuyển giao cho doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức năm cuối của nhiệm kỳ 2015-2020 tăng khoảng 15% so với năm đầu của nhiệm kỳ; thu từ các đề tài, dự án KHCN triển khai hoặc chuyển giao từ nguồn kinh phí địa phương hoặc phối hợp thực hiện vẫn được duy trì. Tuy nhiên đối với nguồn thu này mức tăng giảm hằng năm không ổn định, chưa tương xứng với tiềm lực đội ngũ và trang thiết bị KHCN đã đầu tư. - Nguồn thu xã hội hóa khác thông qua hoạt động của Quỹ phát triển ĐHQGHN, Quỹ KHCN, Quỹ Hợp tác quốc tế, quỹ học bổng và các quỹ khác có các đóng góp thúc đẩy cho hoạt động của ĐHQGHN: tài trợ các dự án NCKH, hội nghị, hội thảo và hỗ trợ công bố quốc tế của Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn FLC; hợp tác xây dựng chương trình đào tạo Hàng không Vũ trụ của Tập đoàn Viettell. Tuy nhiên, vào những năm cuối của nhiệm kỳ 2016-2020 các đối tác truyền thống (BIDV, Tập đoàn Dầu khí) không còn duy trì hoạt động tài trợ cho ĐHQGHN. Các hoạt động XHH phục vụ đầu tư tại Hòa Lạc chưa triển khai được do còn vướng mắc về thủ tục pháp lý. 2.3. Thực trạng về phương án phân bổ, điều tiết nguồn lực - Đối với nguồn chi đầu tư phát triển, giai đoạn 2016-2019, việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự án thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công năm 2014; ĐHQGHN không được chủ động phân bổ, điều chỉnh kế hoạch hằng năm của các dự án. Từ năm 2020, việc phân bổ vốn được điều chỉnh, thực hiện theo Luật Đầu tư công sửa đổi năm 2019. - Đối với ngân sách chi thường xuyên, phương án phân bổ ngân sách của ĐHQGHN cho đến nay vẫn thực hiện độc lập hai nguồn kinh phí: GD&ĐT và KHCN. Do đó, dẫn đến hiện tượng kinh phí phân bổ không được tích hợp, tạo nguồn lực chung đủ lớn để tập trung đầu tư theo mục tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược phát triển của ĐHQGHN (đầu tư cho các chỉ số có khả năng tăng). Kinh phí chi thường xuyên sự nghiệp GD&ĐT thực hiện phân bổ theo phương án ổn định từ năm 2012 đến nay đã bộc lộ bất cập do quy mô đào tạo tăng mạnh trong hai năm cuối của nhiệm kỳ; cơ cấu ngành đào tạo thay đổi, số lượng các ngành đào tạo tự chủ, thu học phí chất lượng cao tăng nhanh. Phần kinh phí NCKH phân bổ, quản lý theo cơ chế Quỹ tại Quỹ phát triển KHCN của ĐHQGHN chưa phát huy hiệu quả, kinh phí chưa được phân bổ kịp thời cho các chương trình, nhiệm vụ KHCN ưu tiên. - Đối với Nguồn thu sự nghiệp: Quy định điều tiết hiện được thực hiện đồng đều giữa các đơn vị; chưa có quy định riêng phù hợp cho từng đơn vị ở từng thời điểm khác nhau cần phải huy động nguồn lực lớn để đầu tư cho các nhiệm vụ ưu tiên. Do nguồn thu sự nghiệp của toàn ĐHQGHN còn thấp nên số thu điều tiết chưa đáng kể, mới chỉ đáp ứng các nhiệm vụ thường xuyên hằng năm. Thu điều tiết chưa đủ để tạo nguồn tích lũy phục vụ chi đầu tư phát triển; hoặc hình thành các quỹ học bổng khuyến khích đào tạo, NCKH thế mạnh, có thành tích cao của ĐHQGHN; thu hút đội ngũ cán bộ NCKH có trình độ cao. 2.4. Đánh giá chung ĐHQGN thực hiện cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lâp, có một số quyền tự chủ cao hơn các trường đại học khác; các đơn vị dự toán trực thuộc đã bước đầu thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (chủ yếu ở mức tự đảm bảo chi thường xuyên). ĐHQGHN được Chính phủ ưu tiên cả chi đầu tư và chi thường xuyên. Tuy nhiên, mức đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ĐHQGHN; phương án phân bổ nguồn lực chưa tập trung thống nhất được tích hợp, tạo nguồn lực chung đủ lớn để tập trung đầu tư theo mục tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược phát triển của ĐHQGHN. Nguồn thu sự nghiệp có tăng nhưng mưc thu còn thấp; thu điều tiết chưa có nguồn tích lũy cho chi đầu tư phát triển. 3. Yêu cầu về tài chính bền vững phát triển ĐHQGHN trong bối cảnh tự chủ đại học 3.1. Đảm bảo nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu phát triển và các chỉ tiêu của nhiệm kỳ Đại hội - Đảm bảo nguồn lực đầu tư phát triển ĐHQGHN tại Hòa Lạc: tăng đầu tư từ NSNN; hoàn thành thủ tục để giải ngân vốn ODA vay WB và Nhật Bản; bố trí đủ vốn đối ứng thực hiện ODA; tăng nguồn đầu tư XHH. - Đầu tư cho các hoạt động/ lĩnh vực có khả năng tăng chỉ số tiếp cận các đại học trong nhóm xếp hạng theo mục tiêu cần đạt. - Đầu tư trọng tâm, tạo bước đột phá để tăng qui mô các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến, chất lượng cao và các ngành mới có tính liên ngành cao, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực bậc cao của đất nước - Đầu tư cho các chương trình đào tạo KHCB; các ngành đào tạo mũi nhọn, thế mạnh của ĐHQGHN có thành tích cao để củng cố vị thế và danh tiếng của ĐHQGHN. - Đầu tư cho các hướng nghiên cứu khoa học trọng điểm, mũi nhọn để tạo các sản phẩm khoa học và công nghệ chủ lực, mang thương hiệu ĐHQGHN. - Đầu tư phát triển, thu hút đội ngũ (cơ chế đãi ngộ, thu nhập, môi trường làm việc) đáp ứng yêu cầu của đại học nghiên cứu đổi mới, sáng tạo. - Đầu tư thực hiện kế hoạch chuyển đổi số toàn diện trong mọi hoạt động của ĐHQGHN, sử dụng các giải pháp công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại; vận hành CSVC hiện đại của ĐHQGHN được đầu tư mới tại Hòa Lạc. 3.2. Có cơ chế phân bổ điều tiết hiệu quả, tăng tự chủ, tạo nguồn tích lũy - Cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính tập trung, thống nhất; cơ cấu việc phân bổ ngân sách chi để thực hiện việc đầu tư có mục tiêu, trọng tâm; đầu tư cho các hoạt động/ ngành lĩnh vực có khả năng tiếp cận, đạt được các chỉ số của các đại học trong nhóm xếp hạng ĐHQGHN đạt mục tiêu trong Chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn 2035. - Điều tiết nguồn lực nội bộ của ĐHQGHN để tạo nguồn tích lũy đảm bảo nguồn vốn đối ứng, trả nợ vay cho dự án WB, dự án Trường ĐH Việt Nhật; đầu tư để củng cố thế mạnh về KHCB và một số lĩnh vực đã đạt thành tích cao của ĐHQGHN; hỗ trợ các nhóm nghiên cứu mạnh, tiềm năng; nâng cao năng lực công bố khối KHXH&NV; 3.3. Khai thác hiệu quả quyền tự chủ tài chính của ĐHQGHN phát triển nguồn thu sự nghiệp, đa dạng hóa nguồn thu; triển khai và XHH 3.4. Khai thác hiệu quả nguồn lực CSVC và hệ thống PTN mới được đầu tư tại Hòa Lạc để tạo nguồn thu tái đầu tư, đóng góp một phần trả nợ vay ODA 3.5. Đảm bảo nguyên tắc công khai minh bạch, tuân thủ quy định tài chính. 4. Đề xuất các giải pháp 4.1. Giải pháp về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển ĐHQGHN a) Đẩy nhanh lộ trình chuyển đổi các đơn vị tự chủ theo Luật GDĐH và quy định cơ chế tài chính hiện hành. - Phân loại đơn vị theo mức độ tự chủ để có cơ chế tài chính phù hợp; - Xác lập mô hình tự chủ của toàn ĐHQGHN; - Xác định lộ trình chuyển đổi các trường đại học thành viên sang đơn vị tự chủ theo Luật GDĐH quy định tài chính; vấn đề tự chủ của Khoa trực thuộc trong ĐHQGHN. - Hướng dẫn các đơn vị có đủ điều kiện xây dựng Đề án tự chủ, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện quyền tự chủ. b) Phát huy hiệu quả quyền tự chủ về tài chính của ĐHQG theo Nghị định mới ban hành - Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn 3 năm, 5 năm; trong đó, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cần ưu tiên đầu tư trong từng giai đoạn/ từng năm. Đề xuất với Chính phủ cấp ngân sách theo kế hoạch tài chính đã lập. - Nghiên cứu ban hành khung định mức kinh tế kỹ thuật chung của ĐHQGHN theo khối ngành/ nhóm ngành làm căn cứ xác định học phí. - Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý điều hành tài chính của ĐHQGHN phù hợp với Luật GDĐH và Nghị định mới về ĐHQG. c) Tiếp tục chủ động phối hợp với Bộ GD&ĐT đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Cơ chế tài chính đặc thù Việt Nhật. 4.2. Giải pháp về tăng cường các nguồn lực tài chính a) Tăng nguồn đầu tư cho Dự án Hòa Lạc - Đề xuất Chính phủ tăng đầu tư từ NSNN: đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư Dự án WB, Dự án VJU; chuẩn bị kỹ hồ sơ kỹ thuật để bảo vệ tốt danh mục dự án trong kế hoạch trung hạn; - Chủ động tìm kiếm đối tác, triển khai một số dự án theo hình thức đối tác công tư (PPP) huy động các nguồn vốn xã hội hóa để triển khai các dự án đầu tư xây dựng ĐHQGHN tại Hòa Lạc. - Khuyến khích, ưu tiên triển khai sớm dự án của các đơn vị có khả năng thu xếp nguồn đầu tư xây dựng Trường từ các nguồn ngoài NSNN. b) Tăng nguồn tài chính cho các hoạt động nhằm thực hiện chỉ tiêu Đại hội, gia tăng chỉ số xếp hạng của ĐHQGHN theo mục tiêu chiến lược - Tiếp tục xây dựng và đề xuất với Chính phủ cấp kinh phí triển khai các Đề án về đào tạo nhân tài, đào tạo CLC, đào tạo các ngành lĩnh vực mới cung cấp nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước; xây dựng và đề xuất Chính phủ cấp kinh phí Đề án đào tạo các ngành KHCB dựa trên tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo theo định mức kinh tế kỹ thuật. - Đề xuất với Chính phủ cấp kinh phí đảm bảo tiến độ triển khai các chương trình nhiệm vụ khoa học cấp quốc gia được Chính phủ giao cho ĐHQGHN (Nhiệm vụ Quốc chí, Chương trình Tây Bắc); được cấp kinh phí triển khai các hướng nghiên cứu khoa học trọng điểm, mũi nhọn, liên ngành; tư vấn chính sách, giải quyết các vấn đề của thời đại, phục vụ phát triển đất nước. - Xây dựng chính sách học phí theo định mức kinh tế kỹ thuật, phù hợp với khung học phí và lộ trình tính giá; phát triển các chương trình đào tạo đa ngành, liên ngành đáp ứng nhu cầu xã hội có khả năng thu hút XHH, tăng quy mô đào tạo phù hợp với điều kiện đảm bảo chất lượng; phát triển chương trình LKQT để tăng nguồn thu. - Xây dựng các phương án hợp tác, liên doanh liên kết khai thác CSVC được đầu tư mới tại Hòa Lạc; hợp tác với các tập đoàn, doanh nghiệp khai thác hệ thống trang thiết bị các PTN đầu tư tại Hòa Lạc; chuyển giao, phát minh sáng chế, phát triển sản phẩm quốc gia, tiên phong sáng tạo và chuyển giao tri thức tạo nguồn thu để vận hành, tái đầu tư CSVC, đóng góp nguồn thu trả nợ vay và vốn đối ứng các dự án ODA. - Phát triển các dự án hợp tác với đối tác trong và ngoài nước để kêu gọi các nguồn vốn XHH, vốn viện trợ nước ngoài bổ sung cho hoạt động đầu tư, tăng nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chỉ tiêu Đại hội đã đề ra nhưng thực hiện còn hạn chế do thiếu nguồn lực tài chính như (tăng cường tiềm lực KHCN, thương mại hóa, chuyển giao sản phẩm khoa học và công nghệ; tăng số lượng phát minh, sáng chế, giải pháp KHCN). 4.3. Giải pháp điều chỉnh phương thức quản trị, phân bổ các nguồn lực tài chính của ĐHQGHN - Tâp trung, thống nhất nguồn lực tài chính; phân bổ theo mục tiêu chung. - Điều chỉnh, cơ cấu lại phân bổ ngân sách theo hướng: + Tiếp tục ưu tiên đầu tư cho hệ tài năng, hệ THPT chuyên tạo nên danh tiếng của ĐHQGHN. + Tăng kinh phí các chương trình đào tạo KHCB (từ đào tạo đến NCKH, xây dựng các PTN, chính sách thu hút, đãi ngộ nhà khoa học); giảm đầu tư NSNN các chương trình đào tạo có khả năng XHH. + Tăng đầu từ phát triển các ngành, lĩnh vực KHCN, kỹ thuật, liên ngành, mới có tiềm năng tăng các chỉ số tiêu chí xếp hạng; đầu tư cho các hoạt động trao đổi sinh viên, hợp tác các nhà tuyển dụng và các bên liên quan. + Phân bổ kinh phí NCKH cần gắn với yêu cầu có sản phẩm công bố quốc tế, có sản phẩm KHCN hoàn chỉnh, và các chỉ tiêu khác tăng chất lượng theo chỉ số xếp hạng đại học của các tổ chức quốc tế; có chính sách hỗ trợ các nhóm nghiên cứu, nhà khoa học có tiềm năng. - Điều chỉnh quy định điều tiết nội bộ của ĐHQGHN: + Xem xét, điều chỉnh tỷ lệ điều tiết chung; tỷ lệ điều tiết riêng của từng đơn vị được thụ hưởng dự án WB, dự án VJU đóng góp kinh phí thực hiện trả nợ vay. + Cơ cấu rõ các hạng mục chi sử dụng nguồn thu điều tiết; Hình thành các Quỹ cấp hỗ trợ theo mục tiêu (cấp học bổng; hỗ trợ NCKH; đối ứng các dự án nghiên cứu, trao đổi sinh viên, khen thưởng khi có thành tích ,...); có nguồn tài chính thực hiện cơ chế đãi ngộ thu hút, phát triển đội ngũ. + Có nguồn tài chính tích lũy dành cho đầu tư phát triển; thực hiện các nội dung đầu tư có mục tiêu chung của ĐHQGHN. 4.4. Các giải pháp khác (tích hợp các quỹ, các nguồn tài trợ) Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Phát triển ĐHQGHN, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ học bổng và các quỹ khác. Đẩy mạnh vận động tài trợ từ các nhà tài trợ, trong đó có Hội Cựu sinh viên ĐHQGHN. Xây dựng phương án phối hợp hoạt động và nguồn lực của các Quỹ, các nguồn tài trợ để hoạt động hiệu quả, tránh chồng chéo nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, NCKH theo chỉ tiêu Đại hội đề ra.
|