Trước những biến động sâu sắc của thế giới hiện nay, việc nhận diện, phát huy bản lĩnh dân tộc có ý nghĩa lý luận – thực tiễn cấp thiết, góp phần định hướng chiến lược phát triển bền vững.
Từ yêu cầu đó, bài viết tập trung làm rõ: Bản lĩnh dân tộc trong sự nghiệp giành, giữ độc lập, bảo vệ chủ quyền; Phát triển bền vững thông qua đổi mới tư duy, cải cách thể chế và những thành tựu trên các lĩnh vực; và Hội nhập quốc tế chủ động, trách nhiệm vì hòa bình, phát triển và vị thế quốc gia trong thế kỷ XXI.
1.Bản lĩnh dân tộc trong sự nghiệp giành và giữ độc lập (1945-1975)
Từ truyền thống đến bản lĩnh cách mạng hiện đại: vai trò của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bản lĩnh dân tộc Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là sự kế thừa tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập ngàn đời của dân tộc, được nâng tầm thành bản lĩnh cách mạng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ Cương lĩnh năm 1930, Đảng đã xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trung tâm, đặt nền móng cho con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa [13; tr.5]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, bản lĩnh dân tộc được tổ chức hóa và thể hiện rõ qua Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 – bước ngoặt lịch sử kết tinh giữa truyền thống dân tộc và lý tưởng cách mạng hiện đại.
Suốt ba mươi năm kháng chiến, từ chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) đến Đại thắng mùa Xuân (1975), bản lĩnh ấy được tôi luyện, thể hiện trong sự kiên định, linh hoạt của đường lối cách mạng. Văn kiện Đại hội IV của Đảng (1976) khẳng định: “Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam... phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện bản lĩnh kiên cường của một dân tộc anh hùng” [3, tr.42].
Bản lĩnh qua ba cuộc kháng chiến lớn: chống Pháp – chống Mỹ – bảo vệ biên giới
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần quyết tử bảo vệ độc lập: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [15, tr.480].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng với phương châm “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, cuộc chiến đã kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc Pháp ký Hiệp định Genève. Đại hội III của Đảng (1960) đánh giá: “Kháng chiến chống Pháp thắng lợi là kết quả của bản lĩnh cách mạng sáng suốt, kiên cường và linh hoạt của Đảng” [2, tr.75].
Sau Hiệp định Genève, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ nhằm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1954-1975), với sự kết hợp linh hoạt đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao. Các chiến dịch lớn như Mậu Thân 1968, Điện Biên Phủ trên không 1972, và chiến dịch mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện đỉnh cao của bản lĩnh, tinh thần Việt Nam.
Đại hội IV (1976) khẳng định: “Chiến thắng chống Mỹ, cứu nước là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng” [3, tr.21].
Sau năm 1975, Việt Nam tiếp tục bảo vệ chủ quyền qua hai cuộc chiến ở biên giới Tây Nam và phía Bắc (1975–1979). Dù trong hoàn cảnh khó khăn hậu chiến, Đảng và nhân dân vẫn thể hiện bản lĩnh kiên cường, nguyên tắc bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.
Đại hội VII (1991) nhấn mạnh: “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc bất biến trong đường lối chiến lược của Đảng” [5, tr.123].
Xuyên suốt các cuộc kháng chiến, bản lĩnh dân tộc Việt Nam không chỉ là sự kiên cường mà còn là năng lực lãnh đạo chính trị và trí tuệ chiến lược của Đảng. Đó là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hội nhập bền vững sau này.
Những giá trị tư tưởng, tinh thần hình thành cốt lõi bản lĩnh dân tộc
Giai đoạn 1945-1975 là thời kỳ bản lĩnh dân tộc Việt Nam được tôi luyện và khẳng định trong hoàn cảnh đặc biệt: từ giành chính quyền đến liên tiếp đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc. Trong bối cảnh đó, bản lĩnh dân tộc không chỉ là sức mạnh vật chất hay tinh thần chiến đấu, mà là sự kết tinh của những giá trị tư tưởng – chính trị sâu sắc, làm nên nền tảng bản sắc hiện đại của dân tộc.
![]() |
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân |
Trước hết, khát vọng độc lập gắn với tinh thần yêu nước và ý chí tự cường là giá trị cốt lõi. Từ truyền thống chống ngoại xâm, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần ấy được nâng tầm thành lý tưởng cách mạng có tổ chức. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành biểu tượng của bản lĩnh dân tộc hiện đại.
Thứ hai, chính nghĩa và đạo lý dân tộc là nền tảng tạo nên bản lĩnh Việt Nam trước thế giới. Các cuộc kháng chiến chính nghĩa được tiến hành không chỉ bằng vũ khí mà bằng niềm tin vào lẽ phải, vào sự ủng hộ của nhân dân và bạn bè quốc tế. Một lần nữa, câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước...” [15, tr.480] thể hiện bản lĩnh không khuất phục trước mọi áp lực.
Thứ ba, tinh thần đại đoàn kết là nguồn sức mạnh bền vững. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết...” là chiến lược phát triển dân tộc. Văn kiện Đại hội III (1960) khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng... chỉ có dựa vào lực lượng toàn dân mới tạo nên sức mạnh chiến thắng” [2, tr.65].
Thứ tư, bản lĩnh dân tộc là bản lĩnh chính trị – cách mạng, được tổ chức hóa qua một đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo. Văn kiện Đại hội II (1951) nêu rõ đường lối kháng chiến là “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” [1, tr.112] – thể hiện lựa chọn chiến lược đúng đắn và chủ động.
Tổng hòa các giá trị ấy – yêu nước, chính nghĩa, đoàn kết, độc lập, chủ động – bản lĩnh dân tộc thời kỳ 1945-1975 không chỉ đưa đất nước vượt qua thử thách sống còn mà còn tạo nền tảng bản sắc cho công cuộc phát triển và hội nhập bền vững hôm nay.
2.Bản lĩnh trong thời kỳ Đổi mới: phát triển bền vững trên nền tảng độc lập (1986–2025)
Tư duy Đổi mới và chuyển hóa bản lĩnh trong điều kiện hòa bình
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, dân tộc Việt Nam bước sang một thời kỳ mới: hòa bình, thống nhất, nhưng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn về kinh tế, xã hội, hậu quả chiến tranh và bối cảnh quốc tế phức tạp. Trong bối cảnh đó, bản lĩnh dân tộc tiếp tục được thử thách – không còn là bản lĩnh trong chiến tranh, mà là bản lĩnh trong kiến tạo hòa bình và phát triển. Bước ngoặt tư duy mang tính lịch sử đã diễn ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.
Đổi mới không chỉ là chính sách, mà là biểu hiện sinh động của bản lĩnh dân tộc trong điều kiện mới – dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, vượt qua tư duy giáo điều, chủ quan. Văn kiện Đại hội VI nhấn mạnh: “Phải kiên quyết thay đổi những tư duy kinh tế không còn phù hợp… đổi mới từ tư duy đến tổ chức và hoạt động thực tiễn” [4, tr.38-41].
Tư duy Đổi mới thể hiện ở việc chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quyền tự chủ cho cơ sở, coi trọng hiệu quả, năng suất và lợi ích của người dân. Đồng thời, bản lĩnh dân tộc được phát huy mạnh mẽ trong quá trình vừa hội nhập quốc tế sâu rộng, vừa giữ vững độc lập, tự chủ, với phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế...
Từ nền tảng chính trị ổn định, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xác lập tư duy chiến lược về phát triển bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của chiến lược phát triển đất nước... kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh” [8, tr.74].
Bản lĩnh dân tộc trong thời kỳ Đổi mới còn được thể hiện ở khả năng thích ứng, tự đổi mới để đối mặt với khủng hoảng (giai đoạn 1986–1990), vượt qua bao vây, cấm vận (trước 1995), và từng bước hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế toàn cầu (từ 2007 đến nay). Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh: “phát huy cao độ ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... dựa trên bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần đổi mới sáng tạo và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” [9, tr.29-30].
Có thể khẳng định: trong thời kỳ hòa bình và phát triển, bản lĩnh dân tộc Việt Nam đã được chuyển hóa từ tinh thần chiến đấu thành ý chí kiến tạo, từ quyết tâm giữ nước thành năng lực làm chủ và phát triển đất nước trong một thế giới đầy biến động. Đó chính là sự tiếp nối và phát triển biện chứng của truyền thống – từ khát vọng độc lập đến khát vọng phát triển bền vững, hiện đại và có trách nhiệm.
Thành tựu phát triển trên các lĩnh vực:
Về kinh tế – chính trị
Trong gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên cả lĩnh vực kinh tế và chính trị. Từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nền kinh tế năng động trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tốc độ tăng trưởng GDP được duy trì ở mức khá cao và ổn định, bình quân giai đoạn 1990-2020 đạt trên 6%/năm; năm 2022, GDP đạt hơn 409 tỷ USD, đứng trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đóng góp gần 45% GDP, hơn 97% doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp tư nhân trong nước [17].
Trên lĩnh vực chính trị, Việt Nam đã giữ vững ổn định chính trị – xã hội, củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển nhanh và bền vững đất nước” [9, tr.34].
Đồng thời, quá trình cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả điều hành và năng lực cạnh tranh quốc gia. Bản lĩnh chính trị của Việt Nam còn thể hiện rõ nét qua việc kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc gia trong một thế giới nhiều biến động.
Về văn hóa – xã hội
Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định phát triển văn hóa – xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững. Đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được cụ thể hóa qua nhiều nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014) và gần đây là Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021. Đảng nhấn mạnh: “Văn hóa còn thì dân tộc còn. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” [10, tr.6].
Trên cơ sở đó, các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội và đời sống tinh thần của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, chỉ còn khoảng 2,9% vào năm 2023 (theo chuẩn nghèo đa chiều); tuổi thọ trung bình đạt 73,7 tuổi; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, xếp thứ 115/191 quốc gia, thuộc nhóm trung bình cao (UNDP, 2023). Giá trị truyền thống được bảo tồn và phát huy, trong khi quyền tiếp cận thông tin, dịch vụ xã hội và hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng được nâng cao…
Những thành tựu đó phản ánh sự kiên định của Đảng trong việc “lấy con người làm trung tâm”, đồng thời thể hiện bản lĩnh phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội – một đặc trưng nhất quán trong mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về khoa học – giáo dục – y tế – môi trường
Trong tiến trình Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát triển khoa học, giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường là những trụ cột quan trọng để bảo đảm phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, hiện đại, hội nhập quốc tế” đồng thời “đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số toàn diện” [9, tr.148-149].
Giáo dục phổ cập đạt được nhiều bước tiến vượt bậc; hệ thống giáo dục đại học, dạy nghề từng bước đổi mới theo hướng mở, linh hoạt và tiếp cận chuẩn quốc tế. Việt Nam hiện có nhiều trường đại học nằm trong bảng xếp hạng khu vực châu Á (QS Asia 2023). Trong lĩnh vực khoa học – công nghệ, quốc gia đã từng bước hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, với mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ, khởi nghiệp số phát triển mạnh mẽ.
Ngành y tế đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt thể hiện qua năng lực ứng phó đại dịch COVID-19. Hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ sở được củng cố; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 92% dân số (năm 2023). Cùng lúc, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng đến phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) năm 2020 là bước ngoặt trong việc quy định trách nhiệm của toàn xã hội đối với phát triển xanh, tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu.
Những thành tựu ấy không chỉ phản ánh bản lĩnh đổi mới trong quản lý, đầu tư chiến lược mà còn cho thấy tư duy phát triển con người là trung tâm – vì một tương lai “phồn vinh, hạnh phúc và bền vững” [9, tr.32].
Bản lĩnh thể chế: từ đổi mới tư duy đến quản trị quốc gia hiện đại
Bản lĩnh dân tộc trong thời kỳ hiện đại không chỉ thể hiện qua tinh thần đấu tranh giành độc lập, mà còn được khẳng định rõ nét qua năng lực tự đổi mới tư duy và thích ứng thể chế trước những biến động lớn của thời đại. Từ Đại hội VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một bước ngoặt chiến lược bằng việc khẳng định yêu cầu “đổi mới toàn diện, đồng bộ” nhằm tháo gỡ khủng hoảng, phát huy nội lực và mở rộng hội nhập. Bản lĩnh thể chế chính là khả năng vượt qua cứng nhắc giáo điều, đưa tư duy lý luận tiến gần hơn với thực tiễn đất nước và xu thế của thời đại.
Tư duy quản trị quốc gia của Đảng từng bước chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – một mô hình chưa có tiền lệ, nhưng được hoạch định và điều chỉnh linh hoạt theo từng giai đoạn. Văn kiện Đại hội XIII đã nhấn mạnh quyết tâm: “Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển… trong đó thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là trọng tâm, thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền tảng, thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu” [9, tr.122].
Thành tựu quản trị thể chế trong gần 40 năm Đổi mới được thể hiện rõ qua nhiều mặt: hệ thống pháp luật được hoàn thiện đồng bộ hơn; bộ máy hành chính từng bước tinh gọn, hiệu lực; công tác phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh với quyết tâm “không có vùng cấm”; thể chế tài chính, đầu tư công, cải cách tiền lương, chính sách đất đai, phát triển thị trường khoa học – công nghệ được điều chỉnh theo hướng hiện đại và hội nhập.
Đặc biệt, Đảng đã nhấn mạnh vai trò trung tâm của con người trong thiết kế thể chế. Quản trị quốc gia không chỉ nhằm bảo đảm hiệu quả điều hành mà còn hướng tới một xã hội công bằng, văn minh và phát triển toàn diện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X (2007) xác định: “hoàn thiện thể chế là điều kiện then chốt để phát huy các nguồn lực, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển” [14].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bản lĩnh thể chế còn được thể hiện qua năng lực thích ứng với các yêu cầu mới: chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh, quản trị đa tầng và công khai minh bạch. Chính sự chủ động cải cách từ bên trong đã giúp Việt Nam duy trì ổn định chính trị, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và gia nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tóm lại, từ đổi mới tư duy đến đổi mới thể chế, từ đổi mới quản trị đến đổi mới chiến lược quốc gia, hành trình của Việt Nam là minh chứng rõ nét cho bản lĩnh thể chế mang tầm vóc dân tộc – bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, với mục tiêu xuyên suốt: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3.Bản lĩnh hội nhập có trách nhiệm: khẳng định vai trò trên trường quốc tế
Việt Nam hội nhập từ thế yếu đến thế mạnh: những cột mốc ngoại giao – kinh tế – chính trị
Hội nhập quốc tế là một quá trình chiến lược lâu dài, phản ánh bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong việc chủ động thích ứng với thời đại, đồng thời khẳng định vai trò, vị thế của quốc gia trong hệ thống quốc tế nhiều biến động. Khởi đầu từ vị thế một nước bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, từng bước vươn lên, tạo dựng được uy tín và ảnh hưởng trong cộng đồng quốc tế.
Ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng về đối ngoại, trong đó có bao vây cấm vận của một số quốc gia lớn. Tuy nhiên, với tư duy đổi mới và đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước tháo gỡ thế cô lập. Đại hội VII (1991) chính thức xác lập phương châm: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [5, tr.91].
Từ đó đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với hầu hết các cường quốc và tổ chức quốc tế quan trọng. Việc gia nhập ASEAN (1995), APEC (1998), WTO (2007), ký kết và thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP (2018), EVFTA (2020), RCEP (2022)… là minh chứng rõ rệt cho tiến trình hội nhập chủ động, tích cực và toàn diện. Việt Nam không chỉ hội nhập về kinh tế mà còn nâng tầm ảnh hưởng chính trị – ngoại giao, với vai trò thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008-2009; 2020-2021), chủ nhà APEC (2006, 2017), Chủ tịch ASEAN (2010, 2020), Chủ tịch IPU-132 (2015),… [11].
Tư duy hội nhập của Đảng đã liên tục được cập nhật qua các văn kiện Đại hội. Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả… nâng cao năng lực thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế” [9, tr.158-159].
Từ một nước nghèo, phụ thuộc viện trợ, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế đang phát triển năng động hàng đầu khu vực, là đối tác tin cậy của nhiều quốc gia, và được cộng đồng quốc tế đánh giá là hình mẫu về phát triển bền vững gắn với hội nhập có trách nhiệm. Chính bản lĩnh chính trị – bản lĩnh thể chế – bản lĩnh ngoại giao đã tạo nên bước chuyển từ “thế yếu” - thụ động, sang “thế mạnh” - chủ động trên trường quốc tế, phản ánh tầm vóc mới của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Hình ảnh Việt Nam trong thế giới đầy biến động: chủ động, bản sắc, trách nhiệm
Trong bối cảnh thế giới những năm đầu thế kỷ XXI chuyển động nhanh, phức tạp, khó lường – với cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, các vấn đề toàn cầu gia tăng như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng, kinh tế số… – hình ảnh một Việt Nam chủ động, có bản sắc riêng và thể hiện rõ trách nhiệm quốc tế ngày càng được định hình rõ nét. Từ một nước từng bị cấm vận, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có vị thế đang lên, được quốc tế đánh giá cao về năng lực thích ứng, vai trò trung gian hòa giải, và là đối tác đáng tin cậy trong các cấu trúc đa phương khu vực – toàn cầu.
Đường lối đối ngoại của Việt Nam nhất quán thể hiện tinh thần đó. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả” [9, tr.158]. Tư tưởng này không chỉ giúp Việt Nam giữ vững nguyên tắc độc lập – tự chủ, mà còn tạo cơ sở để thể hiện vai trò tích cực, trách nhiệm trước những thách thức chung của nhân loại.
Bản sắc của Việt Nam trong ngoại giao hiện đại không tách rời truyền thống “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “làm bạn với tất cả các nước” như Hồ Chí Minh từng nêu. Sự kết hợp giữa mềm dẻo và kiên định, giữa nguyên tắc và linh hoạt, đã giúp Việt Nam trở thành điểm tựa ổn định ở khu vực Đông Nam Á, một thành viên chủ động kiến tạo trong ASEAN, APEC, ASEM, Liên Hợp Quốc… Đặc biệt, vai trò chủ nhà APEC 2006 và 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (2020-2021), cùng hàng loạt sáng kiến đa phương về an ninh, phát triển bền vững và biến đổi khí hậu, đã làm nổi bật hình ảnh một Việt Nam trách nhiệm, có tầm nhìn chiến lược.
Trách nhiệm quốc tế của Việt Nam còn thể hiện ở các đóng góp cụ thể: cử lực lượng tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc; thúc đẩy nghị sự toàn cầu về phát triển bền vững, công bằng thương mại, công nghệ xanh; cam kết mạnh mẽ tại COP26 về giảm phát thải khí nhà kính. Những đóng góp đó khẳng định bản lĩnh chính trị, năng lực hoạch định chiến lược và đạo lý truyền thống của một quốc gia “dám chia sẻ gánh vác trách nhiệm toàn cầu trong điều kiện phù hợp với năng lực quốc gia” [16].
Như vậy, hình ảnh Việt Nam trong thế giới biến động không còn là một nước nhỏ “phải nép mình” trong cạnh tranh quốc tế, mà là một quốc gia độc lập, chủ động định vị vai trò và bản sắc riêng, sẵn sàng đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển và an ninh khu vực – toàn cầu. Đó là biểu hiện tập trung của bản lĩnh hội nhập có trách nhiệm – một trong những chiều sâu mới của bản lĩnh dân tộc Việt Nam hiện đại.
Định hướng chiến lược đến 2045: phát triển xanh, số hóa, và đóng góp toàn cầu
Hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đang định hình một chiến lược hội nhập quốc tế mang tầm nhìn dài hạn, dựa trên ba trụ cột chính: phát triển xanh, chuyển đổi số và nâng cao trách nhiệm toàn cầu. Đây không chỉ là yêu cầu phát triển nội tại, mà còn là biểu hiện của bản lĩnh quốc gia trong thế kỷ XXI – bản lĩnh biết lắng nghe thời đại, tích hợp lợi ích quốc gia với lợi ích toàn cầu.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định định hướng chiến lược: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”; đồng thời, nhấn mạnh “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” [9, tr.170]. Việc Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị COP26 không chỉ là tuyên bố chính trị, mà là định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, xanh hóa nền kinh tế, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu – một trong những thách thức toàn cầu cấp bách nhất hiện nay.
Song song với phát triển xanh là quá trình số hóa toàn diện nền kinh tế và quản trị quốc gia. Trong Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia số với ba trụ cột: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Đây là bước chuyển quan trọng từ nền sản xuất dựa trên tài nguyên vật chất sang nền kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo – biểu hiện của bản lĩnh quốc gia không dừng lại ở ứng phó, mà tiên phong kiến tạo tương lai.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam tiếp tục thể hiện trách nhiệm trong các cơ chế đa phương, thúc đẩy thương mại công bằng, an ninh khu vực, giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, và bảo vệ các giá trị phổ quát như nhân quyền, phát triển bền vững, an ninh môi trường. Từ kinh nghiệm của một dân tộc đã vượt qua chiến tranh, nghèo đói và hội nhập thành công, Việt Nam đang đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng “một trật tự thế giới dựa trên luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập và chủ quyền” – như Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh tại Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2023.
Như vậy, định hướng chiến lược đến năm 2045 không chỉ nhằm nâng cao nội lực và sức cạnh tranh quốc gia, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh hội nhập có trách nhiệm: Việt Nam không đơn thuần là “người tham dự” tiến trình toàn cầu, mà là một “chủ thể tích cực”, góp phần cùng cộng đồng quốc tế xây dựng tương lai chung vì hòa bình, phát triển, công lý và bền vững.
4.Tổng kết giá trị, vai trò bản lĩnh dân tộc qua 80 năm và một số kiến nghị
Tổng kết giá trị bản lĩnh dân tộc qua 80 năm Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, bản lĩnh dân tộc đã trở thành sức mạnh nội sinh then chốt, là nguồn lực tự lâu dài dẫn dắt dân tộc vượt qua chiến tranh, khôi phục, đổi mới và hội nhập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị truyền thống như lòng yêu nước, tinh thần tự cường, ý chí vươn lên đã được hiện thực hóa thành sách lược hành động cách mạng.
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bản lĩnh đó thể hiện qua tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trong đổi mới, bản lĩnh đó được chuyển hóa thành nội lực vượt qua khủng hoảng, thích ứng với kinh tế thị trường và chủ động hội nhập. Đại hội XIII đã khẳng định: “Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dân tộc ta cũng không khuất phục trước khó khăn, thử thách...” [9, tr.29].
Trong kỷ nguyên mới, bản lĩnh dân tộc cần được bồi đắp như một nguồn lực tư tưởng, giúc đất nước kiến tạo mô hình tăng trưởng bền vững, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, chủ động và trách nhiệm trong hội nhập.
Vai trò của bản lĩnh dân tộc trong chiến lược phát triển hiện nay trong giai đoạn phát triển mới, bản lĩnh dân tộc giúp đất nước kiểm soát rủi ro, nâng cao nội lực và gia tăng năng lực hội nhập. Đây là trụ cột tinh thần để thực hiện khát vọng Việt Nam hạnh phúc, hợp tác, thình vượng. Đây cũng là bản lĩnh trong việc kiên định đồng thời linh hoạt trong đối ngoại, bản lĩnh trong xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, hiệu lực; trong đổi mới sáng tạo, chống tham nhũng, lãng phí, bảo vệ độc lập tối cao.
Văn kiện ĐH XIII đã chỉ rõ: “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc...” [9, tr.115] là động lực nội sinh cho phát triển.
Sau 80 năm kể từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã khẳng định được bản lĩnh qua những chặng đường đấu tranh giành độc lập, bảo vệ tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện vô cùng khó khăn, thách thức. Bản lĩnh dân tộc không chỉ là biểu hiện nhất thời trong lịch sử, mà đã trở thành một nguồn lực nội sinh cốt lõi, cần được tiếp tục khai thác, phát huy và phát triển trong chiến lược xây dựng quốc gia hiện đại. Trên tinh thần đó, bài viết xin đề xuất một số kiến nghị chính như sau:
- Về nghiên cứu bản lĩnh dân tộc như một tài sản chiến lược phát triển đất nước
Bản lĩnh dân tộc – với tư cách là sự kết tinh giữa truyền thống văn hóa – lịch sử, tư tưởng chính trị và tinh thần thời đại – cần được đặt trong vị trí là một tài sản chiến lược, thuộc về nguồn lực mềm của quốc gia. Để làm được điều đó, cần có những hướng tiếp cận nghiên cứu mang tính liên ngành, hệ thống và chiến lược dài hạn. Các cơ quan nghiên cứu, viện hàn lâm, trường đại học nên đẩy mạnh việc xây dựng các công trình khoa học, luận cứ lý luận – thực tiễn về vai trò của bản lĩnh dân tộc trong các giai đoạn phát triển, từ chiến tranh đến hòa bình, từ tự lực kháng chiến đến tự chủ hội nhập.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc...” là một động lực quan trọngđể thực hiện khát vọng phát triển phồn vinh và hạnh phúc[9, tr.101]. Do đó, việc nghiên cứu và hoạch định cơ chế phát huy bản lĩnh dân tộc cần được lồng ghép trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia giai đoạn đến 2045.
- Về giáo dục bản lĩnh dân tộc trong thế hệ trẻ
Một trong những thách thức của thời đại toàn cầu hóa, số hóa và hậu hiện đại là sự đứt gãy về nền tảng giá trị truyền thống, đặc biệt trong các thế hệ trẻ. Trong khi đó, bản lĩnh dân tộc – với tinh thần yêu nước, ý chí vượt khó, tinh thần đổi mới và trách nhiệm xã hội – chính là lớp nền tinh thần giúp thế hệ trẻ đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt và nhiều cám dỗ hiện đại.
Vì vậy, cần đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp và cách tiếp cận trong giáo dục lý tưởng sống, giáo dục công dân và lịch sử dân tộc, đưa bản lĩnh dân tộc trở thành trục nội dung xuyên suốt trong các cấp học, đặc biệt là bậc đại học và sau đại học. Đồng thời, cần lồng ghép bản lĩnh dân tộc trong các chương trình đào tạo cán bộ, đảng viên trẻ, để tạo ra một đội ngũ “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản sắc, bản lĩnh và năng lực thích ứng toàn cầu.
Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh yêu cầu: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch” [18, tr.6] – điều này không thể thực hiện hiệu quả nếu không xây dựng bản lĩnh tư tưởng và chính trị vững vàng trong thế hệ trẻ.
- Về hoạch định chính sách phát triển bền vững và hội nhập chủ động trên nền tảng bản lĩnh dân tộc
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, đối mặt với các nguy cơ phi truyền thống như khủng hoảng năng lượng, biến đổi khí hậu, cạnh tranh địa – chính trị, dịch bệnh toàn cầu…, Việt Nam càng cần một tầm nhìn chiến lược dựa trên bản lĩnh. Bản lĩnh dân tộc không chỉ là “ý chí” để vượt khó, mà còn là năng lực chiến lược để “hành động” có trách nhiệm trong hệ thống toàn cầu.
Việc hoạch định chính sách phát triển cần đặt bản lĩnh dân tộc như một trục giá trị cốt lõi. Điều này đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa tư duy độc lập, tự chủ với tinh thần cải cách mở cửa, dám đổi mới sáng tạo. Chính phủ cần thúc đẩy các chính sách đầu tư cho giáo dục, khoa học công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi xanh – số và phát triển bền vững theo hướng lấy con người làm trung tâm, đồng thời khẳng định vị thế và trách nhiệm quốc gia trong các vấn đề toàn cầu như gìn giữ hòa bình, chống biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực – y tế.
Có thể nói, bản lĩnh dân tộc Việt Nam không chỉ là kết tinh quá khứ, mà còn làđộng lực hiện tại và tầm nhìn tương lai. Trong tiến trình kiến tạo Việt Nam hùng cường và có trách nhiệm, việc nhận diện, bồi đắp và phát huy bản lĩnh dân tộc cần được đặt trong trọng tâm của cả tư duy lý luận, giáo dục thế hệ kế tục, và hoạch định chiến lược phát triển. Đó là con đường để lịch sử tiếp tục soi sáng cho tương lai, và để dân tộc Việt Nam khẳng định giá trị mình trong thế kỷ XXI.
Kết luận
Trải qua 80 năm từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến Việt Nam của năm 2025, lịch sử dân tộc đã ghi dấu một hành trình đầy thử thách nhưng cũng rạng rỡ hào hùng, nơi bản lĩnh dân tộc luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi chặng đường cách mạng. Bản lĩnh ấy – kết tinh từ truyền thống yêu nước, khát vọng độc lập – được định hình và phát triển thành bản lĩnh cách mạng hiện đại dưới sự lãnh đạo kiên cường, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
![]() |
Khơi dậy khát vọng là động lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc_Ảnh: IT |
Từ thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XX, đến công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững trong thế kỷ XXI, bản lĩnh dân tộc Việt Nam không ngừng được tôi luyện, làm giàu thêm bởi tinh thần tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo và hội nhập có trách nhiệm. Những thành tựu toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ không chỉ khẳng định tầm vóc mới của quốc gia, mà còn phản chiếu rõ bản lĩnh vượt khó và tư duy chiến lược của một dân tộc biết chủ động thích ứng trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động.
![]() |
Các khối diễu binh, diễu hành của Quân đội và Công an tham gia tổng hợp luyện lần 2 tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 (Hà Nội), chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Ảnh: Tuấn Huy |
Việc tiếp tục nhận diện, nghiên cứu và phát huy bản lĩnh dân tộc như một tài sản chiến lược không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà còn mang giá trị thực tiễn to lớn trong hoạch định chiến lược phát triển đất nước đến năm 2045 – với tầm nhìn độc lập, thịnh vượng và hội nhập toàn diện. Bản lĩnh ấy chính là nền tảng bền vững để Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới và phát triển, với tinh thần “dân tộc – dân chủ – khoa học – nhân văn” như Đảng đã xác lập trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1961), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2022), Văn kiện Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Bộ Ngoại giao (2023), Niên giám Ngoại giao Việt Nam năm 2023, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
12. Chính phủ Việt Nam (2020), Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930. In trong Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Khóa X: Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-x/nghi-quyet-so-14-nqtw-ngay-3072007-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-ve-tang-cuong-cong-tac-kiem-605, truy cập ngày 25/6/2025.
15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
16. Phạm Minh Chính (2023), “Phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2023”, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn, truy cập ngày 25/6/2025.
17. Tổng cục Thống kê (2024), Báo cáo kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2023, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
18. Văn phòng Trung ương Đảng (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.