VNU Logo

Các nhà khoa học ĐHQGHN nghiên cứu giải pháp phòng tránh thiên tai ở các khu vực miền núi Việt Nam

Ngày 2/10, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN tổ chức Hội thảo “Thảm họa Làng Nủ - Nguyên nhân và giải pháp phòng tránh”. Hội thảo do Bộ môn Địa kỹ thuật và Phát triển hạ tầng, Khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN tổ chức.

Tại hội thảo, các nhà khoa học đã đưa ra nhận định ban đầu về nguyên nhân gây ra thảm họa Làng Nủ, từ đó đưa ra một số giải pháp phòng tránh và ứng phó với các ẩn họa thiên nhiên tương tự Làng Nủ xảy ra ở vùng đồi núi nước ta.

Kết quả nghiên cứu và điều tra thực địa về thảm họa xảy ra vào ngày 10/9 tại Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) cho thấy, do mưa lớn, lượng mưa tích lũy trong 3 ngày đạt 633mm (bằng ¼ lượng mưa trung bình cả năm ở Lào Cai) gây trượt lở khối đất lớn, tích tụ vật liệu vào đoạn co hẹp tạo đập tạm thời và vỡ. Vị trí phát sinh trượt từ hệ tầng núi Con Voi, đá phiến phong hóa mạnh, cường độ không cao và tầng phong hóa dày gây trượt lở khối lớn.

Các nhà khoa học sử dụng mô hình 3D kết hợp dữ liệu thực địa và ảnh vệ tinh để tính toán, xác định dòng lũ chỉ mất khoảng 5 phút (300 giây) để từ đỉnh núi tràn xuống ngôi làng. Kết quả mô phỏng cho thấy chiều sâu tích tụ dòng bùn là 8 - 15m, nơi sâu nhất khoảng 18m, vận tốc dòng chảy rất lớn tới 20 m/giây. Do đó, thời gian chảy từ trên núi xuống (cho cả quãng đường 3,6 km) là khoảng 10 - 15 phút.

PGS.TS Nguyễn Châu Lân - Phó Trưởng bộ môn Địa kỹ thuật, Trường ĐH Giao thông Vận tải cho biết: “Hiện tại, các tỉnh miền núi như Hà Giang, Lào Cai… đã xuất hiện nhiều vết nứt địa chất, đủ để các cơ quan chức năng có thời gian ứng phó. Một trong những giải pháp trước mắt là che phủ các vết nứt bằng vải bạt, kết hợp với hệ thống dẫn và thoát nước ngang, nhằm ngăn nước thấm sâu vào lòng đất, hạn chế nguy cơ sạt lở. Đây là biện pháp đơn giản mà các địa phương có thể nhanh chóng triển khai, sau đó sử dụng các phương án kỹ thuật khác để xử lý vết nứt”.

Các chuyên gia đến từ Khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên đã chỉ ra các dạng thiên tai từ đất dốc, tai biến dọc các dòng chảy trên đất dốc.

GS.TS Đỗ Minh Đức và nhóm nghiên cứu bộ môn Địa kỹ thuật và Phát triển hạ tầng, Khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN cho biết: Khu vực có điều kiện địa hình, địa chất và đặc điểm phân bố dân cư tương tự như Làng Nủ không phải là cá biệt mà ngược lại khá phổ biến ở khu vực miền núi Việt Nam.  

GS.TS Đỗ Minh Đức cũng lưu ý, một số khe nứt sẽ không dẫn ngay đến trượt lở. Các hoạt động trên đất dốc có thể xóa nhòa dấu vết của khe nứt, nhưng một khi đã xuất hiện khe nứt, mái dốc sẽ không thể tự “liền lại” được nữa và nguy cơ trượt lở luôn tiềm ẩn. Bên cạnh taluy đường giao thông, nhà ở, các mái dốc rừng sản xuất đã qua một vài lần khai thác và trồng lại hoặc có hoạt động trên mái dốc như xây dựng công trình, tháp viễn thông, đường dây tải điện… đều cần được lưu ý.

Mưa là yếu tố chủ yếu kích hoạt trượt lở, do vậy, dự báo cần được làm như sau: Các hệ thống quan trắc mưa hiện tại cần có mật độ cao hơn, phát hiện sớm mưa lớn cực đoan; Các hệ thống quan trắc chuyên sâu về ổn định mái dốc; nâng cao độ chính xác công tác dự báo qua ứng dụng phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo; Tăng cường truyền thông thông tin cảnh báo sớm, đảm bảo chính quyền các cấp, đặc biệt là người dân trong vùng bị tác động của trượt lở nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác và hiểu rõ các hành động cần triển khai khi có yêu cầu.  

Theo GS.TS Đỗ Minh Đức, giải pháp trước mắt là cảnh báo và hành động sớm, tăng cường truyền thông thông tin cảnh báo sớm, đảm bảo chính quyền các cấp, đặc biệt là người dân trong vùng bị tác động của trượt lở nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác và hiểu rõ các hành động cần triển khai khi có yêu cầu.

Khi rủi ro trượt lở đạt đến mức rủi ro cấp 1 theo nghị định của Chính phủ, chính quyền địa phương cần hạn chế người và phương tiện lưu thông lân cận các khu vực nguy cơ cao, tới rủi ro cấp 2 và cao hơn, cần cấm các phương tiện lưu thông qua các khu vực nguy cơ cao; di chuyển dân trong khu vực nguy cơ cao đến nơi an toàn và chỉ quay lại khi không còn cảnh báo nguy cơ trượt lở” - GS.TS Đỗ Minh Đức nhấn mạnh.

Đồng thời, cần phát huy hiệu quả vai trò của các cán bộ cơ sở xã, thôn, các tổ đội xung kích phòng tránh thiên tai, như phát hiện sớm các dấu hiệu trượt lở, lũ quét. Chính quyền và người dân cần chú ý đến tính bất thường và cực đoan của thời tiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuẩn bị kịch bản ứng phó với những tình huống khó khăn nhất.   

Các giải pháp trung hạn: Ưu tiên đảm bảo an toàn các khu vực tập trung dân cư; Kiểm soát được tác động tiêu cực của nước mưa và nước mặt: thu thoát nước mưa, nước mặt để giảm tải tác động nhân sinh lên đất dốc, trong một số trường hợp cần có cả thoát nước ngầm; Bảo vệ, phát triển rừng đầu nguồn; Xây dựng quy trình, hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng các công trình dân dụng, giao thông, thủy lợi, thủy điện,… trong vùng có rủi ro trượt lở. 

Các giải pháp dài hạn: Xây dựng quy hoạch chiến lược phát triển tổng thể các vùng đất dốc (Slope Master Plan); Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực các ngành Khoa học Trái đất.

>>> Các tin tức liên quan:

- Tăng cường hỗ trợ tài chính cho nhà khoa học xuất sắc, hướng tới xây dựng đại học đổi mới sáng tạo chuẩn quốc tế

PGS.TS Trần Mạnh Trí - Nhà khoa học xuất sắc của ĐHQGHN vinh dự đón nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2024

- Thu hút nhà khoa học xuất sắc để phát triển nhanh và bền vững

Song Minh - VNU Media