![]() |
Người thầy giáo ấy, chưa một lần được nghe ông giảng bài, nhưng không hiểu sao ngay buổi gặp đầu tiên tôi đã có cảm giác như quen thân, gần gũi ông từ lâu. Năm nay ông đã 74 tuổi, vậy mà trông ông vẫn nhanh nhẹn và da dẻ thì còn hồng hào lắm. Trong lời kể của những cựu học sinh Khối THPT chuyên Toán rồi cựu sinh viên Khoa Toán - Cơ - Tin học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) tên của ông thường được nhắc tới bằng niềm trân trọng, yêu kính…
GS.TSKH Nguyễn Thừa Hợp sinh ngày 24/12/1932 trong một gia đình Tiểu tư sản ở Hạ Đình, Thanh Xuân, Hà Nội. Cha ông làm thư ký bưu điện còn bà mẹ bươn chải bằng nghề chạy chợ, buôn bán nhỏ. Cách mạng tháng Tám thành công rồi kháng chiến chống Pháp nổ ra, cũng như bao nhiêu người khác, gia đình ông phải ly tán mỗi người một nơi. Ông theo mẹ sơ tán ra ngoại thành, việc học tập bị gián đoạn, lúc ấy ông đang học dở lớp đầu tiên bậc Trung học cơ sở. Hoàn cảnh sơ tán khó khăn không làm giảm lòng ham học của cậu học trò Hà thành thông minh. Ngoài thời gian lao động như những đứa trẻ khác trong vùng, ông thường tranh thủ tự học bằng nguồn sách vở ít ỏi mang đi theo. Chẳng thế mà dù không được đến lớp nhưng vốn kiến thức và hiểu biết của ông vẫn được bồi bổ thêm.
Năm 1948, giặc Pháp càn về vùng nông thôn, ông lại theo mẹ rời lên thị xã Hà Đông. Tại nơi ở mới cuộc sống khắc nghiệt và không dễ dàng. Mẹ ông buôn bán, chạy chợ để đảm bảo cuộc sống, còn ông chủ yếu làm các công việc nhà, nấu cơm, giặt giũ. Đã có những thời gian ông phải đi học thợ may. Đó là những năm tháng tuy vất vả nhưng cũng để lại trong ông những kỷ niệm khó quên. Ban ngày, ông giúp mẹ công việc nhà, lấy hàng, đưa hàng, tối đến mới có thời giờ để học. Suốt từ khi về thị xã cho đến năm 1951, ông học theo hình thức đó.
Bằng hình thức thí sinh tự do mà ông đã thi đỗ và lấy được bằng thành chung và sau đó năm 1951 đỗ tú tài phần một. Sau đấy ông có cơ hội vào học lớp tú tài phần hai ở Trường PTTH Chu Văn An và đỗ tú tài phần hai năm 1952.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đã xin vào học Trường Cao đẳng Sư phạm (lúc ấy ông Nguyễn Đình Huề đang làm Hiệu trưởng) với mục đích chính làm sao có học bổng để duy trì tiếp con đường học tập. Trong điều kiện như thế, ông vẫn không quên niềm đam mê toán học của mình. Vừa theo học Trường Cao đẳng Sư phạm, ông vừa đăng ký theo học Khoa Toán đại cương bên Trường Đại học Khoa học và sau hè 1953 ông học xong năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm đồng thời đỗ Toán đại cương của Trường Đại học Khoa học.
Theo một vài người cùng thời cho biết, trong đợt thi Toán đại cương năm ấy, có tới 42 người đăng ký dự thi nhưng chỉ có 3 người đỗ trong đó có ông. Cuối năm 1953 đầu 1954, nhiều học sinh bị bắt đi lính. Để tránh bị bắt lính, ông đã chủ động bỏ học, rời Hà Nội ra vùng kháng chiến, khi ấy ông đang học dở năm thứ hai Trường Cao đẳng Sư phạm. Vốn là trí thức tiểu tư sản trong thành nên khi ra vùng kháng chiến, cũng như một số người khác, ông gặp không ít những khó khăn cả về vật chất và tinh thần bởi người ta không dễ tin những ai đã một thời sống trong vùng bị chiếm. Nhưng ông không vì thế mà nản lòng, ông đã làm rất nhiều công việc lao động tự do bằng chân tay để kiếm sống và ngay cả trong hoàn cảnh ấy, ông vẫn tin sẽ có một ngày nào đó tình hình sẽ được cải thiện. Ông luôn tâm niệm rằng phải tự mình vượt lên hoàn cảnh, không ngã lòng trước những khó khăn, phải phấn đấu bằng chính năng lực của bản thân và có lẽ vì thế nên tất cả những thành công mà ông đã phải vất vả lắm mới có được ngày hôm nay thật đáng trân trọng, tự hào. Đó là tặng vật vô giá mà cuộc sống ban tặng cho một nhà sư phạm, một nhà khoa học có nghị lực, kiên trì, bền bỉ như ông.
Sau ngày hiệp định Giơnevơ được ký kết, quân Pháp rút; ông nhập vào đoàn người hồ hởi trở về thành phố Hà Nội vừa giải phóng, giấc mơ được tiếp tục học nốt chương trình đại học còn dang dở lại thôi thúc ông. Ông xin vào học Trường Đại học Sư phạm Khoa học vừa mới mở trên cơ sở hợp nhất 2 Trường Cao đẳng Sư phạm Hà nội và Trường Sư phạm Cao cấp bên Trung Quốc về. Sau một thời gian dài nghỉ học, được trở lại giảng đường đại học ông và bạn bè rất háo hức, ai cũng say sưa học tập như để truy thu lại những kiến thức mà chiến tranh đã làm gián đoạn. Lứa sinh viên hồi đó được học trực tiếp những người thầy giỏi, những nhà giáo uy tín như Lê Văn Thiêm, Nguyễn Cảnh Toàn, Ngô Thúc Lanh… Và chính các thầy là người đã giúp ông hoàn thiện dần tư duy toán học và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Năm 1956 là năm được đánh dấu bởi sự ra đời của một số trường đại học danh tiếng về sau này như Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm… Cũng trong năm này, Nguyễn Thừa Hợp tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Khoa học, ngành Toán học và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Do miền Bắc mới hòa bình, giáo viên dạy đại học hầu như chưa có, nên khóa học của ông được giữ lại rất đông, một số được bổ nhiệm về Trường Đại học Sư phạm, đa số về Trường Đại học Bách khoa.
Ngay ở Khoa Toán lúc bấy giờ, lực lượng giáo viên rất mỏng, thầy Nguyễn Thừa Hợp mới tốt nghiệp ra trường đã phải trực tiếp tham gia vào công tác giảng dạy cho sinh viên. Ông và các bạn đồng nghiệp hồi đó vừa giảng dạy vừa tự mày mò học hỏi bởi có những kiến thức mới chưa hề được biết. Trong các ngành đào tạo có rất nhiều bộ môn mới xuất hiện, không còn cách nào khác, các giáo viên trẻ phải kịp thích nghi. Ông được phân công phụ trách môn Phương trình hàm riêng, vừa giảng dạy vừa phải tự bồi dưỡng và bổ sung kiến thức.
Ông cho biết, ngoài chuyên môn Toán, thì ông cũng như các đồng nghiệp trẻ khác phải học Nga văn, một ngoại ngữ không thể thiếu vì các sách vở, tư liệu trong thư viện toàn bằng tiếng Nga. Ông kể một cách dí dỏm và đầy kính mến về người thầy đầu tiên dạy tiếng Nga cho ông chính lại là giáo sư toán Lê Văn Thiêm, dạy chủ yếu tập trung vào ngữ pháp, sau đó học từ chuyên môn, rồi cứ thế bổ sung dần dần các từ bằng cách giở sách chuyên môn ra dịch.
Ông không chỉ dạy cho các lứa sinh viên Khoa Toán - Cơ - Tin học mà còn là một người thầy tâm huyết được rất nhiều thế hệ học sinh Khối THPT chuyên Toán - Tin (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) kính trọng, yêu mến. Với ông, ngoài dạy cho học trò những kiến thức cơ bản còn phải cung cấp cho các em phương pháp học tập, nghiên cứu mà hơn hết là thái độ nghiêm túc, tính chính xác, trung thực trước một vấn đề mang tính khoa học dù là nhỏ nhất. Phải chăng vì thế mà bất cứ một ai đã từng được ông giảng dạy đều nhớ, đều nhắc đến tên ông mỗi khi kể về lớp cũ, trường xưa.
Năm 1964, ông được cử đi thực tập khoa học ở Liên Xô. Trước khi đi thực tập ông đã có một số công trình tự làm ở Việt Nam và trong thời gian đi thực tập ấy ông đã kịp hoàn thành luận án phó tiến sĩ toán học. Tuy nhiên do một số điều kiện khách quan mà chưa bảo vệ được (theo quy chế lúc bấy giờ, thực tập sinh không được xét bảo vệ luận án). Phải đến sau năm 1975, miền Nam giải phóng, trước yêu cầu mới của hoàn cảnh chính trị xã hội, những nhà khoa học đã có sẵn công trình nghiên cứu được tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ học vị. Năm ấy, thầy giáo Nguyễn Thừa Hợp bảo vệ thành công học vị phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), cùng năm với thầy Hoàng Hữu Đường. Cũng chỉ sau đó không lâu, ông được phong học hàm phó giáo sư (1980).
Cũng như thời còn trẻ, lấy tự đào tạo làm phương châm, sau khi bảo vệ phó tiến sĩ, thầy Nguyễn Thừa Hợp tiếp tục tự tìm tòi nghiên cứu. Luận án tiến sĩ khoa học của ông được hoàn thành ở Việt Nam cũng do ông tự tìm đề tài, tự tìm tài liệu và được bảo vệ năm 1991.
![]() |
Ông được phong học hàm giáo sư toán học năm 1991. Bằng uy tín và năng lực của mình, ông đã được mời tham dự rất nhiều hội thảo khoa học ở trong nước và quốc tế (Ba Lan và Cộng hòa dân chủ Đức). Ông từng có 1 năm là chuyên gia giáo dục tại Madagascar (1981 - 1982), 3 năm là chuyên gia giáo dục tại Algérie (1987 - 1990). Sau những chuyến đi như vậy, điều mà ông tích lũy được nhiều nhất không chỉ là những tri thức về khoa học của nhân loại mà còn là vốn sống, là phong cách làm việc trong những hoàn cảnh và môi trường khác nhau. GS.TSKH Nguyễn Thừa Hợp thuộc thế hệ những người thầy gắn bó và cống hiến tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ những ngày đầu thành lập. Tính đến khi nghỉ hưu (năm 2000), ông đã có hơn 40 năm gắn bó với giảng đường đại học, với Khoa Toán - Cơ - Tin học trong cương vị người thầy. Ông đã góp công sức đào tạo rất nhiều thế hệ cử nhân Toán học, trong đó có những người giờ đây đã trở thành những nhà khoa học, nhà quản lý nổi tiếng đứng đầu các viện nghiên cứu, các trường, các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương và nhiều người trong số đó hiện nay cũng đã về hưu.
Ông đã công bố 19 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành trong nước và quốc tế, là tác giả của bộ sách "Phơng trình đạo hàm riêng" (2 tập), bộ giáo trình "Giải tích" (3 tập).
Bộ "Giải tích" của ông rất dày, viết cho nhiều đối tượng trong nhiều trường cao đẳng, đại học là công trình mà ông hoàn thành trong thời gian đã nghỉ hưu.
Tuy tuổi đã cao nhưng bằng vốn kiến thức uyên bác ông vẫn đóng góp cho sự nghiệp giáo dục bằng việc viết sách đầy tâm huyết. Và điều đặc biệt là ông rất am tường về Công nghệ thông tin và trong lĩnh vực này ông cũng tự đào tạo. Ông xuất phát không phải là một nhà Tin học, nhưng ông có thể sử dụng rất thành thạo các phần mềm Latex, Mapple, Corel Draw… để viết sách toán, chèn ảnh. Theo một số người cho biết, chính ông là người tự chế bản bộ Giáo trình "Giải tích" 3 tập nêu trên. Một nhà giáo 74 tuổi, theo kịp những tiến bộ Tin học (mặc dù chỉ trong chuyên môn) là một gương sáng cho nhiều bạn trẻ chúng ta suy nghĩ về tính bền bỉ trong lao động.
Thời gian vẫn trôi đi. Thầy giáo Nguyễn Thừa Hợp đã nghỉ hưu, nhưng vẫn âm thầm lao động, vẫn viết sách, cùng những công việc thầm lặng, gửi trọn tài năng và niềm tin cho các thế hệ học trò.
Phần thưởng dành cho ông là những bằng khen, là danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân và hơn hết là sự trân trọng, yêu kính của các thế hệ học trò, bạn bè, đồng nghiệp và người thân…
GS.TSKH Nguyễn Thừa Hợp Sinh ngày 24/12/1932 tại Hà Nội. Mất ngày 22/11/2025 (tức ngày 03/10 năm Ất Tỵ). Thọ 94 tuổi. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Khoa học Hà Nội năm 1956 Quá trình công tác: - Năm 1956 - 1999: Cán bộ giảng dạy tại Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sau đó là Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội); - Năm 1964 - 1966: Thực tập tại Liên Xô; - Năm 1981 - 1982: Chuyên gia giáo dục tại Madagascar; - Năm 1987 - 1990: Chuyên gia giáo dục tại Algérie; - Năm 2000: Nghỉ hưu. Được công nhận học vị Tiến sĩ (1975); Tiến sĩ khoa học (1991); Được phong học hàm Phó giáo sư (1980); Giáo sư (1991) Được phong tặng Danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 1992, Nhà giáo Nhân dân năm 2008 Hướng nghiên cứu khoa học chính - Nghiên cứu các bài toán giải chuẩn không Nơte của hệ Elip hai biến. - Cấu trúc nghiệm của hệ Elip tuyến tính trong không gian nhiều chiều. Một số kết quả đào tạo và nghiên cứu khoa học: Công bố 19 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí, hội thảo trong nước và quốc tế. Đã xuất bản các giáo trình: Phương trình đạo hàm riêng (tập I, II) - 1975, 1976, tái bản tập I: 2001, 2006; Giải tích tập I, II, III các năm 2001, 2003, 2005. Khen thưởng: Huân chương Lao động hạng Ba, Nhà giáo Ưu tú, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục… |

