Thực tình, mới ở lại trường, tôi chưa biết đến những chuyện đã qua, chỉ biết trong Bộ môn có hai thầy rất giỏi, chuyên dịch tài liệu tiếng nước ngoài cho cán bộ và sinh viên sử dụng, đó là thầy Ngọc và thầy Hạo. Những năm đầu, tôi gần gụi với thầy không phải về chuyên môn mà về đời sống. Hồi đó, đang chiến tranh khốc liệt, khoa Ngữ Văn sơ tán ở xã Vạn Thọ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Là cán bộ trẻ, tôi được tiếp thu công việc thầy Nguyễn Xuân Lương đang làm, đó là Trưởng ban Xây dựng của Khoa, nghĩa là phải phụ trách mảng xây dựng lớp học và nhà ở cho sinh viên. Những anh chị sinh viên thời đó chẳng thể quên được những lớp học được đào sâu xuống đất, làm bằng gỗ và nứa do chính anh em đi rừng chặt về. Nhà ở của sinh viên cũng vậy, mỗi lớp một hai nhà tập thể do anh em làm. Cá nhân nào làm nhà riêng cũng được hỗ trợ kinh phí. Cuộc sống thời chiến thật vất vả, nhưng lãng mạn vô cùng, nhất là với cán bộ và sinh viên khoa Ngữ Văn. Câu ca "Bất yên là cái hầm hào, bất nhân là cái bánh bao trường mình" đã ra đời trong những ngày đó. Tôi còn trẻ, lại còn độc thân, được dân nuôi nên cũng chẳng khổ cho lắm. Với những người như thầy Hạo, phải nuôi con nhỏ thì cực lắm. Ở xa, mọi người chỉ biết một Cao Xuân Hạo tài hoa, chứ đâu biết Cao Xuân Hạo, một ông bố đảm đang, tận tụy với con. Thời bao cấp, mọi thứ đều được phân phối theo tiêu chuẩn, từ quần áo, gạo mỡ, kim chỉ, dây chun quần, kẹo bánh đến thuốc lá... Dù chưa được kết nạp vào công đoàn, tôi đã đựơc bàu làm tổ phó công đoàn để lo phân phối những thứ đó cho cán bộ trong bộ môn. Hồi đó, Đại Từ còn hoang vu, rậm rạp và rét lắm. Phải ăn nhiều ớt và hút thuốc lá cho ấm người. Tôi nghiện thuốc lá từ đấy. Có lúc thuốc lá ngoại xả láng. "Be ra ty vừa đi vừa vất", có lúc khan hiếm,"Điện Biên, Tam Đảo đi đâu cả, chỉ thấy Trường Sơn một dãy dài". Ngày ấy, không ai có tư tưởng trục lợi. Tiêu chuẩn mọi người bình đẳng như nhau, ai không có nhu cầu thì nhường cho người khác, chứ không ai nghĩ đến việc bán lại kiếm lời. Trong bộ môn, chỉ có vài người nghiện thuốc, thầy Cẩn, thầy Dương, thầy Hạo và tôi đã phân tiêu chuẩn của những người khác cho các thầy. Ôi! Cái kỉ niệm về mùi vị của thuốc lá Beraty và Lucky còn mãi đến bây giờ!
Tôi được giữ lại trường là để nghiên cứu và giảng dạy môn Từ vựng học tiếng Việt do thầy Nguyễn Văn Tu phụ trách. Vì thế, gần 10 năm công tác cùng thầy Hạo, tôi chỉ học thầy tiếng Nga trong những lớp bồi dưỡng do Công đoàn tổ chức và ngưỡng mộ thầy như một dịch giả tài hoa với các bản dịch Chiến tranh và Hòa bình, Núi đồi và thảo nguyên... Mặc dù biết thầy là chuyên gia về ngữ âm, đã đưa ra luận thuyết âm vị học phi tuyến tính, đã xuất bản ở Pais một cuốn sách nổi tiếng "Phonologie et linéarité. Réflexions critiquer sur les postulats de la phonologie contemporaine" (SELAF 1985), nhưng tôi chỉ kính nhi viễn chi vì đang quan tâm đến những vấn đề khác.
|
|
Mọi sự đã thay đổi khi cuốn "Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng" được NXB Khoa học Xã hội xuất bản năm 1991. Cuốn sách đã mang lại một luồng gió mới cho Ngữ pháp Việt
![]() |
GS. Cao Xuân Hạo |
Tôi rất quý trọng cách hành xử của thầy Cao Xuân Hạo về hai chữ lợi danh. Ông đã bảo vệ đặc cách luận án phó tiến sĩ để có đủ tiêu chuẩn được phong phó giáo sư Ngôn ngữ học. Có lần, tôi hỏi sao thầy không làm tiếp để được phong giáo sư? Ông đã trả lời: Đủ rồi! Tôi cần chức danh Phó giáo sư là để được đào tạo sau đại học, chứ đâu phải để cho oai. Mục đích đạt rồi thì giáo sư cũng vậy thôi! Ôi! Nếu thầy Cao Xuân Hạo thị tài, hành xử theo kiểu bất cần thì làm sao sinh viên và nghiên cứu sinh còn được học trực tiếp với thầy nữa. Thầy phấn đấu thành Phó giáo sư là vì thế hệ trẻ chứ đâu phải cho mình. Tôi thường nói với sinh viên và nghiên cứu sinh trong lớp: thầy Hạo chỉ là phó giáo sư, còn tôi là giáo sư. Nhưng Phó giáo sư Cao Xuân Hạo là bậc thầy của tôi đấy!
![]() |
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp và học trò |
Ở hai đầu tổ quốc, người ở Sài Gòn, người ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn có nhiều dịp trao đổi chuyên môn cùng thầy qua điện thoại. Những lúc xao lòng, tôi lại nhớ tới thầy, một người thừa tài, thừa sức kiếm tiền, nhưng vẫn suốt ngày cặm cụi đọc sách nghiên cứu những vấn đề thiết thực với cuộc sống nhưng có phần xa lạ với nhiều người xung quanh. Thầy Hạo ra đi đã để lại trong tôi một khoảng trống... Rồi đây, những lúc mắc mớ về chuyên môn, tôi biết hỏi ai?!
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2007
(1): Edgar Morin (chủ biên), Thách đố của thế kỉ XXI . Liên kết tri thức, Chu Tiến Anh và Vương Toàn dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.14.