Văn hóa
Trang chủ   >  Văn hóa  >    >  
Ngày xuân xin chữ gửi về tổ tiên
Năm nào cũng vậy, cứ những ngày cuối năm, mẹ lại nhắc tôi thu xếp công việc để về xin chữ của cụ đồ Thứ ở thôn Thượng. Cụ đồ là danh xưng mà mọi người dành cho cụ Thứ, cũng bởi cụ là con trai của cụ đồ Trung, người nổi tiếng văn hay chữ tốt cả tổng quê tôi ngày trước.

Sinh thời, dịp đầu xuân là lúc cụ đồ Trung vất vả nhất, cũng là lúc cụ thấy sung sướng nhất. Từ làng trên xóm dưới, đến những người tận đẩu tận đâu, đổ đến xin cụ một đôi chữ về thờ. Có người tranh thủ xin hộ cho cả đại gia đình, bạn bè. Trong dân gian, người ta vẫn truyền tụng với nhau là năm nào nhà ai mà xin được chữ, được câu đối của cụ Trung về thờ, thì y rằng, xin gì được nấy, lộc chữ, phúc chữ của cụ dày lắm, linh lắm.

Sau khi cụ đồ Trung về với ông bà ông vải, con trai là cụ đồ Thứ, lại tiếp tục cho chữ thiên hạ đầu xuân. Chữ nghĩa của cụ đồ Thứ cũng không thua cha mình là mấy. Mẹ tôi có niềm tin tuyệt đối rằng, chính nhờ những câu đối, những chữ mà các cụ đồ cho tôi dịp đầu xuân đã “giúp” anh em tôi học hành sáng dạ, cửa nhà bình yên.

Tục treo câu đối, treo chữ đầu xuân ban đầu khởi nguồn từ những ý niệm tôn giáo, thực hành tôn giáo. Việc treo các câu đối trước bàn thờ dịp đầu xuân là để trừ đi những điều xấu, ngăn cản ma tà quấy nhiễu gia đình. Dần dần, câu đối hướng đến công lao phúc đức của ông bà tổ tiên. Việc treo câu đối để chống lại nỗi sợ hãi lớn luôn luôn tồn tại trong cuộc đời mỗi người. Nào thiên tai, nào dịch họa mất mùa, nào những điều bất hạnh, đau khổ, bệnh tật đưa đến, người ta không thể lý giải được nguyên nhân, đều quy lại đổ lỗi do ma tà gây ra. Như vậy, câu đối tết, ban đầu nó mang nghĩa như những bùa chú để mang lại niềm tin, chống lại nỗi sợ hãi của con người.

Từ ngày xưa, ông đồ là người được nhân dân ta coi trọng nhất, là tầng lớp cao nhất cùng đồng hành cùng với giai cấp bị trị. Trong nhân dân, chỉ ông đồ là những người hay chữ nhất, lại là những người rộng hiểu biết. Bởi thế, tục xin câu đối, xin chữ các thầy đầu năm như là biểu hiện của lòng khao khát và tinh thần hiếu học của dân tộc ta. Việc đi học đối với những người con của nông dân lao động ngày xưa luôn chỉ là ao ước. Nhưng họ luôn muốn con cái mình sẽ có được cái chữ, sự hiểu biết, cách hành xử lễ nghĩa, cách đối nhân xử thế ở đời của các ông đồ. Như vậy, những ông đồ thời xưa (bản chất là những tri thức của cộng đồng không được trọng dụng) đắt người xin chữ không chỉ vì chữ đẹp, mà bởi vì nếp sống, bởi vì minh triết sống của các ông.

Năm nào về quê, được hầu chuyện cụ đồ Thứ, cũng đều nhận thấy người đến xin chữ của cụ ngày một đông. Cụ bảo, cụ đã “truyền nghề” cho cả trăm người, trong đó có cả con cháu cụ. Tết nào, cụ cũng phải nhờ các con các cháu phụ giúp thì mới làm xuể. Cụ kể, cả đến những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất, những ngày xuân cụ vẫn phải dậy sớm mài mực cho cha mình, cho đến khi cụ đi bộ đội.

Tôi có được niềm vui là, mỗi lần về xin chữ cụ, lại ngồi cạnh mài mực cho cụ, lắng nghe cụ nói về ý nghĩa của từng câu đối, từng chữ. Phải thú thật là, mỗi chữ Hán Nôm, có thể dùng hàng trăm hàng ngàn trang chữ Quốc ngữ may ra mới nói hết cái hay, cái đẹp và ý nghĩa của nó. Những chữ mà cụ Thứ rất nhiều lần hạ bút cho là: Học, Phúc, Lộc, Thọ, Ðức, Tài, Quý, Hành, Nhẫn, Hòa, Duyên, Hỷ, Minh, Vinh… Cụ bảo, ngày xưa dân mình ít chữ, đâu biết chữ nào với chữ nào, cứ đến trình bày với cụ đồ, rồi các cụ đồ sẽ cân nhắc những mong muốn ước nguyện mà cho chữ. Ví như, có người thì than rằng tuổi đã ngoài đôi mươi mà vẫn chưa tìm được chàng trai nào ưng ý thì cụ sẽ cho chữ Duyên. Người đến mong muốn cậu con trai của mình có thể học hành đỗ đạt thì cụ cho chữ Học. Người đến than với cụ rằng anh em gia đình vì tranh giành đất đai mà sinh ra xích mích, cụ hạ bút cho chữ Hòa. Mỗi lần cho chữ, cụ vừa múa tay trên giấy điệp, miệng giảng giải ý nghĩa của chữ mà cụ cho.

Cụ Thứ tâm sự, ngày nay, việc các hoành phi câu đối được khảm ngọc trai, chạm khắc bán khắp nơi nên cụ cũng đỡ vất vả hơn khoản viết câu đối. Hơn nữa, người bình dân đã có những câu đối được in sẵn, bày bán la liệt tại các phiên chợ. Nói là đỡ thôi, kỳ thực tết nào không gian nhỏ trong ngôi nhà cấp 4 của cụ cũng trở thành một công trường giấy đỏ bay phất phơ. Giờ đây, dù sức đã già, cụ vẫn cho chữ những người tri ân, tết nào cũng đến gõ cửa cụ như gia đình tôi. Theo cụ Thứ, người đến xin những câu đối về ơn nghĩa tổ tiên là nhiều nhất. Ví như: Tổ tiên công đức thiên niên thịnh/ Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương (Công đức tổ tôn nghìn năm thịnh/ Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay), Nhật nguyệt quang chiếu thập phương/ Tổ tông lưu thùy vạn thế (Vầng nhật nguyệt chiếu mười phương rạng rỡ/ Ðức tổ tông lưu muôn thủa sáng ngời), Cúc dục nhân thâm Ðông hải đại/ Sinh thành nghĩa trọng Thái sơn cao (Ơn nuôi dưỡng sâu tựa biển đông/ Nghĩa sinh thành cao như núi Thái)… Thi thoảng, cụ Thứ cũng ứng tác những câu đối mới tặng cho những người bạn tâm giao. Cụ bảo, riêng kho tàng câu đối của ông cha cũng có đến trăm ngàn, và đã đúc kết thành chuẩn mực, nên cụ thường viết theo người xưa. Ngoài ra, người dân còn đến xin cụ những câu đối về tài lộc, phúc đức, bình an,…

Ngày xuân, dường như đi đâu ta cũng bắt gặp cảnh các ông đồ cho chữ. Ða phần các “ông đồ” này chỉ ở tuổi “anh đồ, chị đồ” rất trẻ. Họ có thể bày mực giấy tại cổng đền chùa, trong khu Văn Miếu ở Hà Nội hay trên các khu phố đông đúc và cho chữ. Không chỉ là chữ Hán Nôm, còn có nhiều chữ, nhiều câu đối được viết bằng chữ quốc ngữ cũng rất đẹp, trang nhã. Những vuông giấy có cả nẹp, đai, dây treo trông thật bắt mắt. Rồi đâu đó, trong những ngôi nhà của những người am hiểu chữ Hán Nôm, say sưa chữ Quốc ngữ cũng đều có những người bạn đến xin chữ, xin câu đối về treo. Tuy không la liệt như ngày xưa, tục xin chữ, xin câu đối hãy còn tồn tại trong sinh hoạt văn hóa đầu xuân của dân tộc ta. Tiện đây, cũng xin thưa lại với nhà thơ Vũ Ðình Liên, người cách đây chừng 75 năm đã viết về những ông đồ bày mực tàu giấy đỏ với lời cảm thán về sự mai một nét văn hiến này, bằng cách mượn lối diễn đạt của nhà thơ Phùng Quán:

"Dạ thưa ngõ phố bây giờ

Vẫn còn giấy đỏ ông đồ múa tay".

 Tự Cường - Bản tin ĐHQG Hà Nội số 239/2011
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan